Bình Định Vương Lê Lợi khởi nghĩa chống nhà Minh (P5)

Tác giả: Hồ Bạch Thảo

Tháng Giêng năm Bình Định Vương thứ 9 [8/2-8/3/1426] (Minh, Tuyên Đức năm thứ nhất), nhà Minh ra lệnh mở khoa thi Hương; nhưng vì tình hình an ninh, nên Tam ty Giao Chỉ xin tạm ngừng; lại xin miễn cho các quan về kinh đô chầu hầu:

Mùa xuân, tháng Giêng, Lễ bộ nhà Minh hạ lệnh mở khoa thi hương để chọn học trò. Tổng binh và hai ty Bố chính và Án sát xin tạm ngừng. Lại xin miễn lễ chầu hầu sang năm vì địa phương chưa yên.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 10, trang 18b.

Vua Tuyên Tông sau khi lên ngôi, tìm hiểu kỹ nguyên nhân thất bại trong việc đương đầu với cuộc khởi nghĩa của Bình Định Vương Lê Lợi, từ buổi khởi đầu tại Thanh Hoá, cho đến Nghệ An; đành ngậm ngùi trách móc nặng nề bọn Trần Trí, Phương Chính, Sơn Thọ:

Ngày 5 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [12/4/1426]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Vinh xương bá Trần Trí, Đô đốc Phương Chính đánh dẹp bọn giặc Lê Lợi; tiến quân đến châu Trà Long, bị thua. Nguyên nhân Chính dõng, Trí khiếp nhược, vốn không hòa thuận với nhau; Nội quan Sơn Thọ lại chủ trương chiêu dụ nên đóng binh một chỗ không cứu, đến nỗi bị bại. Thượng thư Trần Hiệp tâu cho biết, Thiên tử nghiêm thiết trách Trí và Chính rằng:

“Giặc Lê Lợi vốn chỉ là tên nhãi con, nếu sớm tận tâm đánh bắt, thì dễ như nhặt một cọng lá; rồi các ngươi ngồi yên không lo tính, dưỡng giặc nên trở thành mối hoạn. Nay nghe tin mang binh tới ải Khả Lưu và châu Trà Lung [Long], cả hai nơi đều nhục vì tổn thất. Do bọn ngươi ngày thường dựa vào ý riêng tranh hơn thua, không ai chịu nhường; lúc đụng việc thì kẻ dõng, tiến quân một mình nhưng vô mưu; người khiếp nhược thì sợ co lại không cứu; như vậy thì làm sao thành công được? Luận tội há có thể tha được ư! Nay tạm khoan dung, các ngươi ngày đêm hãy đồng tâm hiệp lực, luyện tập sĩ tốt tinh nhuệ, lo diệt giặc này để chuộc lỗi trước.”

Trách Thọ rằng:

“Giặc Lê Lợi vốn đã cùng khốn, nếu sớm để tâm đánh bắt, thì dễ như thò tay bắt ổ chim con, các ngươi lại sai lầm dựa vào ý kiến riêng, ba bốn lần xin chiêu phủ để đến nỗi dưỡng họa, gây mối lo. Đến lúc Phương Chính mang quân đánh dẹp, ngươi giữ hơn một ngàn quan quân tại thành Nghệ An, không chịu đến tiếp cứu, nên hỏng việc; tội của ngươi có thể dung thứ được ư! Ngươi nên suy nghĩ kỹ, lo cải hối, tận tâm gắng sức trợ giúp bọn Chính cùng lo việc về sau hữu hiệu hơn.”

Sắc dụ Trần Hiệp rằng:

“Trần Trí và Phương Chính tài trí tầm thường, Trí khiếp nhược hay đố kỵ, Chính dõng nhưng ít mưu; lại theo ý riêng cạnh tranh nhau, không hòa thuận nên lại bị bại. Nay tạm khoan dung, lo mưu đồ hữu hiệu hơn, để chuộc lại lỗi trước. Ngươi nên tận lực giúp cho bọn chúng đồng tâm bình định bọn giặc này; ngạn ngữ nói Lâm nguy mà không kiên trì, không dùng được các ngươi hãy cố gắng.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 134)

Vua Tuyên Tông nghe lời tâu sàm, ân cần ban sắc tế Tri châu Trà Long Cầm Bànhtrung kiên giữ tiết bề tôi; lương hết, cứu viện dứt, nhưng bất khuất mà chết”; bởi không biết rõ sự thực rằng Cầm Bành biết là viện binh không đến, mở cửa thành ra hàng, Bình Định Vương Lê Lợi đã dẹp yên châu Trà Lân vào tháng chạp năm Bình Định Vương thứ 7 [21/12/1424 – 19/12/1425]:

Ngày 5 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [12/4/1426].

Truy tặng Tri phủ Nghệ An Cầm Bành chức Tả Bố chánh sứ ty Bố chánh Giao Chỉ. Sai quan ban sắc văn, tế Giao Chỉ Bố chánh Sứ ty rằng:

“Cố Tri phủ Cầm Bành cung kính triều mệnh, kiên trì giữ tiết tháo kẻ bề tôi, dốc sức đánh giặc, đến chết không rời chí; tấm lòng thành trung nghĩa sáng như ban ngày; Trẫm thương nhớ, sáng tối không quên; sắc mệnh đặc cách ban tặng chức Tả Bố Chánh sứ Giao Chỉ Bố chánh sứ ty. Sắc đến nơi, lập tức ưu đãi thưởng tuất cả nhà; đưa một người con đến kinh đô ban quan chức. Bành người đất Giao Chỉ, được thăng chức Tri phủ Nghệ An, trấn nhậm châu Trà Lung [Long] dân đều nhớ ơn huệ. Lúc giặc đến đánh thành, ngày đêm chống cự, trung kiên giữ tiết bề tôi; lương hết, cứu viện dứt, nhưng bất khuất mà chết. Sự việc được tâu lên, nên ban mệnh này.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang135)

Tình hình lúc bấy giờ tại miền tây bắc, có nhiều nhóm nổi dậy kết hợp với nghĩa quân của Bình Định Vương, hoạt động tại các tỉnh Lai Châu, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Lao Cai. Vua Tuyên Tông thúc dục Mộc Thạnh sai Đèo Cát Hãn đánh dẹp tại châu Ninh Viễn tức Lai Châu; còn Trần Trí đảm trách các vùng còn lại:

Ngày 3 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [10/4/1426]

Mệnh quan Tổng binh Thái truyền Kiềm quốc công Mộc Thạnh đôn đốc thổ quan châu Ninh Viễn Tri châu Đèo Cát Hãn bắt giặc tại châu Ninh Viễn. Tham tướng Vinh xương bá Trần Trí chiêu hàng và bắt bọn giặc tại các phủ Tuyên Hóa, Thái Nguyên thuộc Giao Chỉ. Lúc bấy giờ Đô đốc Trần Tuấn giữ chức Đô ty Giao Chỉ tâu rằng:

 Bọn giặc tại các phủ Tuyên Hóa [Vĩnh Phúc], Gia Hưng [Phú Thọ], đầu đảng là bọn Chu Trang cấu kết với giặc Áo Đỏ bọn Trương Kình tại Vân Nam và châu Ninh Viễn; chúng cướp giết nhân dân, thiêu hủy châu huyện nhà cửa. Tại châu Qui Hóa [Yên Bái, Lao Kai], bọn giặc Hoàng Am tụ họp đám đông trộm cướp; lại thêm tại huyện Phù Lưu [thuộc châu Phúc Yên, phủ Giao Châu; nay thuộc vùng huyện Thường Tín, Hà Tây], giặc Phan Khả Lợi theo tên đầu đảng Lê Lợi cướp phá. Vì hai phủ Thái nguyên, Tuyên Hóa có những châu huyện lân cận với Vân Nam; riêng tại châu Ninh Viễn có bọn giặc mặc áo đỏ bụng đen, nên gọi là giặc áo đỏ; thổ quan Tri châu Đèo Cát Hãn để chúng lộng hành cướp phá, quan quân mang quân thảo phạt thì trốn sâu vào trong rừng, khi quân rút lại xuất hiện cướp phá; xin mang quân đánh dẹp.” Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang133.

Bị tấn công nhiều nơi, bộ máy cai trị của nhà Minh trở nên suy nhược; vua Tuyên Tông đành phải cho những người có tội sang Giao Chỉ lập công chuộc tội; cùng gửi sang 1.000 đạo khám hợp[1] sẵn sàng ban chức quan cho người được chiêu hồi gắng sức lập công:

Ngày 12 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [19/4/1426]

Trực tiếp dụ bộ Binh rằng, võ quan bị tội đáng sung quân lập công nhưng chưa đi, cùng những người bị pháp quan hỏi tội, đều được lệnh đến Giao Chỉ lập công để chuộc tội.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang136)

Ngày 17 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [24/4/1426]

Thiên tử trực tiếp dụ Lại bộ Thượng thư Kiển Nghĩa rằng bọn giặc Lê Lợi, Phan Liêu tại Giao Chỉ giết hại những người trung lương, chiếm các châu, trại. Phàm quan lại dân chúng bị bách hiếp, bất đắc dĩ phải theo giặc cùng những người từng đồng mưu với Lê Lợi, nhận sự ủy nhiệm của giặc, nay biết hối tội trở sang đường thiện, hoặc mang bộ hạ đến qui phụ, hoặc đích thân trở về đều được tha tội, trả lại quan chức. Sau đó nếu tận tâm vì triều đình mà ra sức báo đáp, cùng những dân bản xứ Giao Chỉ lập thành tích đều được xét theo công lao mà giao chức quan. Hãy biên 1000 đạo khám hợp giao cho quan Tổng binh và Thượng thư Trần Hiệp để xét thành tích mà ban chức.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 137)

Vào tháng 3, nhà Minh điều động quân sang cứu Giao Chỉ. Về bộ binh sử dụng lực lượng từ sông Dương Tử xuống phía nam, gồm các vệ thuộc Phúc Kiến, Quảng Đông, Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Lưỡng Hồ; dùng kỵ binh Trực Lệ tức Bắc Kinh, và thổ binh Quảng Tây làm xạ thủ và chỉ đường:

Ngày 13 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [20/4/1426]

Sắc dụ Sở vương, Thục vương mỗi người điều lính bộ binh hộ vệ 1000 người; các Đô chỉ huy ty Phúc Kiến, Quảng Đông, Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Hồ Quảng; cùng các vệ tại Nam Trực Lệ tuyển điều quân kỵ cộng 15.000 người đến Giao Chỉ đánh giặc. Tại các phủ Tư Minh, Điền Châu tỉnh Quảng Tây tuyển điều Thổ binh bắn cung hơn 3000 tên đợi lệnh và làm hướng đạo. Lại sắc Lão Qua không được dung nạp bọn phản tặc.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang137)

Mệnh Thành sơn hầu Vương Thông giữ chức tổng chỉ huy, Đô đốc Mã Ánh làm Tham tướng, Thượng thư Trần Hiệp lãnh chức tham mưu:

Ngày 2 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [8/5/1826]

Mệnh Thái tử Thái bảo Thành sơn hầu Vương Thông mang ấn Chinh Di Tướng quân sung chức Tổng binh, Đô đốc Mã Ánh sung Tham tướng, đến Giao Chỉ chinh tiễu giặc, trị an phủ dụ quân dân; vẫn ra lệnh Thượng thư Trần Hiệp làm Tham tán quân vụ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang139)

Lệnh cho Vương Thông khi đến nơi, được Tam ty Giao Chỉ tuyển sẵn 3 vạn người bản xứ, để tăng cường:

Ngày 2 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [8/5/1426]

Sắc dụ Tam ty tại Giao Chỉ rằng:

Nay mệnh bọn Thành sơn hầu Vương Thông mang quân dẹp giặc. Khi Thông đến, hãy tuyển dân bản xứ 3 vạn người theo sự điều động của Thông, nhắm diệt giặc này để yên một phương. Các quan lại quân dân dưới quyền lấy việc cung ứng quân lữ làm trọng; tất cả các việc nhỏ mọn khác đều phải đình chỉ không được làm nhọc dân thêm nữa.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang139)

Thành sơn hầu Vương Thông đích thân xin thêm đơn vị thiện chiến thuộc doanh Thần cơ, để làm quân hộ vệ:

Ngày 3 tháng 4 năm Tuyên đức thứ nhất [9/5/1426]

Sắc mệnh các doanh Thần cơ đưa bọn Đô Chỉ huy Tạ Vinh cùng 510 tên theo Thành sơn hầu Vương Thông chinh phạt Giao Chỉ; thể theo lời tâu của Thông.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 141)

Riêng đối với các tướng lãnh có lỗi tại Giao Chỉ như Trần Trí, Phương Chính, đều bị giáng xuống làm Sự quan; tức quan có lỗi phải lập công chuộc tội, dưới quyền tiết chế của Vương Thông:

Ngày 3 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [9/5/1426]

Cách chức Vinh xương bá Trần Trí, Đô đốc Phương Chính quan tước; giáng xuống sung vào Sự quan,[2] tuân theo sự điều động của quan Tổng binh Vương Thông, làm tiên phong lập công chuộc tội. Những sắc dụ cùng ấn Chinh Di Phó tướng trước kia được lãnh, hãy giao cho Thông để nạp lên. Sắc dụ bọn Trí rằng:

“Triều đình mệnh ngươi thống suất quân lính trấn đóng Giao Chỉ để dẹp tan giặc cướp, yên ổn dân chúng; bọn ngươi ôm lòng riêng trục lợi, không hòa mục, để đến nỗi giặc hoành hành, quan quân thua chết, tàn ngược dân lương thiện; xét về tội các ngươi đáng vạn lần chết, không chuộc được. Nay tạm khoan hồng, cách chức tước, theo bọn Thành sơn hầu Vương Thông lập công để chuộc tội. Thái Phúc ngu đần, làm hỏng việc, cũng được tha tội chết để lập công, nếu giáp trận không biểu hiện vũ dõng, sẽ bị tru lục không tha thứ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang140)

Trước khi sai Vương Thông xuất sư, Vua Tuyên Tông gặp các đại thần thuộc hai phe chủ hòa và chủ chiến. Vua nói rằng từ khi chiếm Giao Chỉ đến nay, không có năm nào không dùng binh; người Trung Quốc phải chạy vạy cũng bị mệt mỏi quá lắm; ý Vua nên theo thời Hồng Vũ, cho nơi này tự trị, hàng năm triều cống. Phe chủ chiến có Kiển Nghĩa và Hạ Nguyên Cát phản đối; nhưng phe chủ hòa Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh ủng hộ:

Ngày 3 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [9/5/1426]

Thiên tử thị triều xong ngự tại điện Văn Hoa, bọn Kiển Nghĩa, Hạ Nguyên Cát, Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh hầu cận. Thiên tử phán:

Thái Tổ Hoàng đế dạy rằng các nước di địch bốn phương cùng các man nhỏ bé tại phương nam; giới hạn bởi núi cao, góc biển, hoang tịch tại một phương; được đất này không đủ để cung cấp, được dân này không đủ để dùng; nên ra lệnh rằng ngoại trừ bọn chúng không biết cân nhắc, đến quấy nhiễu biên cương của ta làm chuyện không lành; trường hợp chúng không gây mối lo cho Trung Quốc, ta lại mang binh đánh thì cũng chính ta làm việc không lành vậy! Ta lo con cháu về sau ỷ Trung Quốc giàu mạnh, tham công nhất thời, vô cớ hưng binh tổn thương nhân mạng, phải ghi nhớ là không thể làm như vậy.

“Sau này họ Lê [Quí Ly] giết vua, độc hại người trong nước, Thái Tông Hoàng đế bất đắc dĩ mang quân điếu phạt. Ý lúc khởi đầu là đợi sau khi bình định xong giặc họ Lê, tìm con cháu vua trước lập lên, với thịnh tình phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt. Nhưng con cháu vua trước bị giặc họ Lê giết hết, nên thể theo lời của dân bản xứ xin lập quận huyện, đặt quan cai trị, việc này không phải là bản tâm của Thái Tông Hoàng đế.

“Từ đó đến nay tại Giao Chỉ không có năm nào không dùng binh; dân chúng một phương bị giết đã nhiều, người Trung Quốc phải chạy vạy cũng bị mệt mõi quá lắm! Vua cha [Nhân Tông] thường nghĩ đến điều này, nặng lòng trắc ẩn, nên lúc lên ngôi ban chiếu thi ân cho xứ này rất hậu.

“Hôm qua sai tướng xuất sư, Trẫm suốt đêm không yên lòng, không nỡ phạm đến sinh linh dân vô tội. Đào sâu suy nghĩ chỉ muốn như thời Hồng Vũ và những năm đầu Vĩnh Lạc, cho nơi này tự lập một nước, hàng năm triều cống, bảo toàn sinh mệnh dân một phương, mà cũng để người Trung Quốc được nghĩ ngơi nữa. Ý các ngươi như thế nào?”

Bọn Kiển Nghĩa chưa kịp tâu, Thiên tử lại nói thêm:

Việc này vốn không phản bội lòng của tổ tông.”

Kiển Nghĩa và Nguyên Cát tâu:

Thái Tông Hoàng đế bình định đất này lao phí rất nhiều, nay chỉ vì một tên tiểu xú tác quái, sao lại lo không dẹp được. Hơn hai mươi năm cần lao, lại bỏ đi trong một buổi sáng, há lại không nghĩ đến sự tổn thương đến uy vọng, xin suy nghĩ thêm nữa!”

Thiên tử quay về phía Sĩ Kỳ và Dương Vinh hỏi:

Bọn khanh hai người, ý kiến thế nào?”

 Tâu rằng:

 “Tấm lòng của Bệ hạ cùng chung tấm lòng với trời đất và tổ tiên. Từ thời Đường, Ngu, Tam Đại; Giao Chỉ là đất hoang dã bên ngoài; bấy giờ tuy không có đất này nhưng các vua Nghiêu, Thuấn, Võ Thang, Văn, Vũ không mất tiếng khen là bậc thánh quân. Thái Tông Hoàng đế buổi đầu muốn lập họ Trần, nên đáng gọi là bậc thánh. Từ nhà Hán, Đường trở về sau, Giao Chỉ được đặt làm quận huyện; nhưng có lúc phản lại có lúc lúc phục tòng, bất thường, chết quân, phí của không thể kể xiết; nhưng về đường thực dụng thì không đáng một đồng tiền, không được một tên lính. Thời Hán Nguyên Ðế, Chu Nhai phản, mang binh đánh, suốt năm không bình định được, các quan ty bàn nên đưa đại binh, Nguyên Ðế dùng lời bàn của Giả Thôi bỏ quận Chu Nhai, được sử đời trước khen. Nguyên Ðế là vua hạng thường còn ban bố lòng nhân, thi hành điều nghĩa như vậy; huống Bệ hạ là cha mẹ của thiên hạ há lại dùng cách bàn bạc được mất của những kẻ bụng dạ sài lang ư!”

Nguyên Cát xin cho bốn người suy nghĩ thẩm xét lại rồi tâu sau. Thiên tử nói:

Được, nhưng ý Trẫm vốn như vậy, không kể đến hậu quả việc dụng binh ra sao.”

Ngày hôm sau tại triều, sau khi Sĩ Kỳ và Dương Vinh tâu xong, Thiên tử nói:

“Ngày hôm qua bàn về việc Giao Chỉ, ý của Trẫm giống với ý của các khanh, không còn có gì phải nói thêm nữa.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 141)

Chuẩn bị cho Vương Thông xuất sư, nhà Minh sai lính chính qui đến đóng tại phủ Lạng Sơn; nhằm tăng cưởng an ninh biên giới:

Ngày 6 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [12/5/1426]

Thiết lập tại Ải Lưu và trạm Đổng, phủ Lạng Sơn hai ty tuần kiểm. Tại Ải Lưu trước đây lập đồn cho quan ải nhỏ; trạm Đổng cũng có một đồn cho trạm, cả hai đều do lính bản xứ trấn đóng. Nhân phủ Lạng Sơn tâu chốn này núi non hiểm yếu, xin bỏ đồn lập hai ty tuần kiểm, thay lính bản xứ bằng lính chính qui. Bởi vậy chấp thuận cho đặt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 143)

Kết hợp với biện pháp quân sự, Vua Tuyên Tông làm công tác địch vận, hứa cho tất cả mọi thành phần chống đối, một khi buông vũ khí, đều được tha, không kết tội:

Ngày 3 tháng 5 năm Tuyên Đức thứ nhất [8/6/1426].

Xuống chiếu tha những người có tội tại Giao Chỉ.Chiếu rằng:

“Đạo trị nước của Trẫm nhắm thương dân; thể hiện lòng nhân từ xót xa, khoan tuất sự lầm lỗi. Giao Chỉ kể từ ngày sáp nhập vào bản đồ đến nay đã đến hai mươi năm; mấy lần gây phản nghịch, làm bận đến vương sư. Nhưng ghét chết thích sống, lòng người không ai nghĩ khác; đâm xuống vực, nhảy vào lửa không phải là bản tâm của con người. Tìm hỏi nguyên nhân đều do quan lại cai trị không đúng, không ngừng cướp đọat; cảnh tình kẻ dưới không đào đạt được lên, người trên lại không ân trạch ban xuống. Dân chúng lâm cảnh khốn khổ, đâm ra nghi ngờ, bèn trốn vào rừng núi, hô nhau làm lọan, tình cảnh thực bất đắc dĩ. Xét về tội cũng có chổ đáng thương, nên ban ân mưa móc để đều được thấm nhuần.

Phàm quân dân Giao Chỉ phạm vào tội phản nghịch, bị phát giác hoặc chưa phát giác, bị kết án hoặc chưa kết án; khi chiếu thư đến, tội không kể lớn nhỏ, đều được tha. Lê Lợi, Phan Liêu, Lộ Văn Luật, vốn đã qui phụ triều đình, từng được bổ nhiệm sử dụng, rồi suy nghĩ lệch lạc, để đến nỗi sai trái như vậy. Nay đặc biệt mở con đường đổi mới, nếu thành thực hối cải, trở lại theo điều thiện, giữ tiết bề tôi thì được tha tội, vẫn được trao quan chức. Những kẻ bị Lê Lợi bức hiếp theo nghịch, cùng những dư đảng của Trịnh Công Chứng trốn tránh chưa xuất hiện, nay có thể đích thân ra qui thuận, hoặc đến quan sở tại đầu thú cũng đều được tha, quan sẽ trở lại nguyên chức, quân trở lại nguyên đơn vị, dân trở lại với nghề cũ. Sau khi chiếu thư ban ra, như bọn Lê Lợi cùng những kẻ bị cưỡng bách, chấp mê không hối tội, vẫn chống mệnh như cũ, thì quân Thiên tử gia tăng thảo phạt, hối cũng không kịp nữa.

Từ nay trở về sau tại đất Giao Chỉ, ngoài việc nạp thuế lương thực, những việc trưng điều khai mỏ vàng, bạc, muối, sắt, hương liệu, cá, hoa quả đều đình chỉ; vàng, bạc, đồng, tiền, muối, cá ướp được lưu hành trong lãnh thổ, quan phủ không cấm, để tỏ lòng thể tuất của Trẫm đối với dân chúng.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang145)

Tình hình tại Giao Chỉ lúc bấy giờ, thành Nghệ An bị uy hiếp nặng, ngay viên tướng hiếu chiến như Phương Chính cũng đành thụ động bó tay; khiến Đô ty và Án sát phải tâu về triều:

Ngày 27 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [2/6/1426]

Ty Đô Chỉ huy và ty Án sát Giao Chỉ tâu:

‘Sự quan Phương Chính giữ phủ Nghệ An, giặc mang binh đến tận thành, Chính án binh bất động. Đô Chỉ huy sứ Vương Diễn lo thế giặc càng ngày càng tăng, đích thân mang lính kỵ binh tinh nhuệ ra đánh, chém hơn 170 thủ cấp, giặc sợ nên bỏ trốn.’

Thiên tử trực tiếp dụ Thượng thư bộ Binh Trương Bản rằng:

 ‘Phương Chính không chịu đánh, hoặc cẩn thận đợi thời cơ cũng chưa biết được; nhưng giặc từ xa đến, dùng quân tinh nhuệ đánh để làm nhụt tinh thần giặc, Diễn thực có công, không thể trì hoãn tưởng thưởng, hãy sai người ruỗi ngựa mang bạc tiền ủy lạo.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 144)

Trước đây, Đô đốc Phương Chính thách Bình Định Vương mang quân về đồng bằng giao chiến, bấy giờ nghĩa quân đến tận thành Nghệ An, Chính vẫn án binh bất động, nên gửi thư thách thức:

Lại thư cho Phương Chính.

(Tháng 5 năm Bính ngọ [6/6-4/7/1426], quân ta đến thành Nghệ An, giặc không ra đánh, ta mới viết thư cho).

Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính: Ta nghe nói người danh tướng trọng nhân nghĩa, khinh quyền mưu. Bọn mày gửi thư cho ta, cứ cười ta núp náu ở nơi rừng núi, thập thò như chuột, không dám ra nơi đồng bằng đất phẳng để đánh nhau. Nay ta đã đến đây, ngoài thành Nghệ An đó đều là chiến trường cả, mày cho đấy là rừng núi chăng? Là đồng bằng chăng? Thế mà mày cứ đóng thành bền giữ như mụ già là làm sao? Ta e bọn mày không khỏi cái nhục khăn yếm.[3] (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a7.)

Đô đốc Phương Chính lại gửi thư, bấy giờ tại triều đình nhà Minh, chỉ trong vòng một năm, hai Vua Thái Tông, Nhân Tông lần lượt mất. Nên phía ta đem lời cảnh cáo chớ dùng quân xâm lược lúc này, do mối họa có thể xảy ra từ trong nội bộ:

Lại thư trả lời Phương Chính.

Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải dấy nhân nghĩa làm đầu. Chỉ nhân nghĩa có gồm đủ thì công việc mới xong xuôi. Nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng điếu dân phạt tội,[4] kỳ thực làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được sống yên. Nhân nghĩa mà lại thế ư? Nay ở nước mày, dân oán thần giận, kế tiếp đại tang,[5] thế mà đã không biết tự xét lỗi mình, lại còn cùng binh độc vũ,[6] cam lòng xâm lược phương xa, khiến cho sĩ tốt phơi thây, nhân dân lầm than. Ta e mối lo của họ Quý không phải ở nước Chuyên Du, mà ở trong tiêu tường[7] vậy.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a8.)

Sự quan Trần Trí tâu về triều tình hình an ninh suy yếu, miền trung tại Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa; miền bắc tại Tuyên Hóa, Thái Nguyên đều cần tăng thêm quân; xin chuyển lính làm đồn điền sang chiến đấu:

Ngày 24 tháng 5 năm Tuyên Đức thứ nhất [29/6/1426]. Sự quan Giao Chỉ Trần Trí tâu rằng:

Thủ lãnh giặc Lê Lợi tụ tập đám đông chiếm cứ châu Trà Lung [Long], quan quân đánh nhưng chưa bắt được. Tại Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa cũng cần dùng quan quân để tuần tiễu phòng bị, nhưng các vệ lính không đủ; nên đã hội bàn cho triệt thoái hết quân giữ đồn điền trong 14 vệ, gồm hơn 2600 tên, tại phần đất phía trái Giao chỉ. Nay tại cửa biển Điển Canh, châu Cửu Chân, có thuyền giặc cướp bóc dân ta; tại châu này lại có bọn giặc tụ tập làng xã để chiêu mộ đồ đảng. Tại châu, huyện thuộc các phủ Tuyên Hóa, Thái Nguyên có bọn giặc Áo Đỏ quấy nhiễu. Để lo việc chính tiễu tuần phòng xin trích ra 5000 tên trong số tổng cộng hơn 8900 tên từ các vệ Tả, Hữu, Trung, Tiền, Hậu tại Giao Châu; cùng 9 vệ tại Xương Giang, Trấn Di, Tam Giang, Thị Cầu; các vệ này đang phụ trách về đồn điền. Những người lấy ra được miễn phải trưng thu gạo hàng năm, chờ khi bình xong giặc, lại trở về với đồn điền như cũ. Lời tâu được chấp thuận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 147)

Tháng 4, An bình bá Lý An được giữ chức Đô ty Giao Chỉ, chỉ dưới quyền tiết chế của Tổng binh Vương Thông:

Ngày 2 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [8/5/1426].

Sắc dụ An Bình bá Lý An giữ chức Đô ty Giao Chỉ; theo sự tiết chế của quan Tổng binh.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 139)

Nhưng chỉ 3 tháng sau, có lời tâu rằng An hèn nhát, đụng trận lùi trước, nên bị phạt làm Sự quan:

Ngày 9 tháng 7 năm Tuyên Đức thứ nhất [11/8/1426].

Bộ Binh nơi hành tại tâu rằng:

‘Bọn Sự quan Giao Chỉ Phương Chính đánh Lê Lợi; nhưng bọn An bình bá Lý An; Đô chỉ huy Vu Tán, Tạ Phượng, Tiết Tụ, Chu Quảng, Trần Phong đụng trận thì lui trước; Chính có thành tích dũng cảm.’

Thiên tử mệnh tạm tha. Sắc dụ Thành sơn hầu Vương Thông lệnh An, cùng bọn Tán, Phượng, Tụ, Quảng, Phong được đái tội làm Sự quan, cùng bọn Trần Trí dẫn đầu lập công; nếu không có công bị trừng trị theo quân pháp.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 148)

Tháng 8, Bình Định Vương đánh thành Nghệ An, nhưng bị đánh lui:

Ngày 28 tháng 8 Tuyên Ðức thứ nhất [29/9/1426]

Người cầm đầu ty Bố chánh, Án sát Giao Chỉ Thượng thư Trần Hiệp sai người tâu rằng: đầu sỏ giặc Lê Lợi, đến thành Nghệ An khí thế rất mạnh, ngày đêm đánh thành. Bị Sự quan Lý An, Phương Chính hợp quân đánh bại.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 149)

Sử Việt chép vào thời gian này, Bình Định Vương sai 3 đạo quân đi tuần các lộ xung quanh thành Đông Đô, tức Hà Nội. Đạo thứ nhất, theo hướng nam bắc, tuần hành phía tây Đông Đô, nhắm tiêu diệt viện binh từ Vân Nam sang, cùng uy hiếp vùng Hà Tây. Đạo thứ hai, cũng theo hướng nam bắc, đi tuần phía đông thành Đông Đô, nhắm đánh quân Minh từ Lưỡng Quảng xuống. Đạo quân thứ ba thọc vào thành Đông Đô, tùy cơ đánh phá:

Tháng 8, mùa thu. Bình Định vương sai các tướng chia nhau đi tuần các lộ ở Đông Đô [Hà Nội]. Vương cho rằng quân tinh nhuệ của nhà Minh ở cả Nghệ An, Đông Đô trở thành yếu ớt trống rỗng bèn sai: Bọn Thái úy Lý Triện, Xu mật Phạm Văn Xảo, thái giám Trịnh Khả và Đỗ Bí ra từ Thiên Quan [Ninh Bình], đi tuần vùng Quốc Oai [Hà Tây], Quảng Oai [Hà Tây], Gia Hưng [Phú Thọ, Hoà Bình], Quy Hóa [Yên Bái, Lào Kai], Đà Giang, Tam Đái [Vĩnh Phú] và Tuyên Quang để diệt đạo viện binh nhà Minh từ Vân Nam kéo xuống.

 Bọn Thiếu úy Lưu Nhân Chú và Bùi Bị ra từ Thiên Quan, đi tuần vùng Thiên Trường [Nam Định], Kiến Xương [Thái Bình], Tân Hưng [Hải Dương], Thượng Hồng, Hạ Hồng [Hải Dương], Bắc Giang và Lạng Sơn để diệt đạo viện binh từ Lưỡng Quảng kéo xuống.

Bọn Tư đồ Đinh Lễ và Lê Xí thống suất toán quân tinh nhuệ kế tiếp xuất phát, thọc ngay vào Đông Quan để phô trương thanh thế, rồi sau mới thừa cơ mà tiến thủ. Các tướng trẩy đến đâu cũng giữ quân luật nghiêm túc, không tơ hào xâm phạm đến của nhân dân. Bấy giờ các lộ ở Đông Đô và các thổ tù ở ven biên giới chẳng ai là không vui vẻ hả hê.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.

Bấy giờ cánh quân Lý Triện từ mạn bắc tỉnh Hà Tây gây sức ép; Trần Trí phải mang quân từ thành Đông Quan tức Hà Nội, đến huyện Chương Mỹ chống cự, nhưng bị đánh thua; quân Triện tiến đóng phía tây bờ sông Đáy. Được tin quân địch từ Vân Nam tới, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo đi đánh, thắng địch tại cầu Xa Lộc,[8] huyện Lâm Thao, Phú Thọ. Riêng Triện cùng quân Lê Xí làm cuộc truy kìch bọn Trần Trí, đến tận chân thành Đông Đô, giết viên Đô ty Vy Lượng tại Nhân Mục[9] thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội ngày nay:

 Cánh quân của các tướng Lý Triện từ mạn Quốc Oai [bắc Hà Tây] và Tam Đái [Vĩnh Phúc] đe dọa bức bách thành Đông Quan. Tham tướng Minh, Trần Trí dốc hết quân ra mạn Ninh Kiều[10] [Chương Mỹ, Hà Tây] và Ứng Thiên [Ứng Hoà, Hà Tây] để chống cự. Triện cùng bọn Xảo, Khả và Bí hợp sức đánh hăng, quân của Trí phải thua chạy. Bọn Triện tiến đóng ở bờ phía tây sông Ninh Giang [sông Đáy].

Chợt được tin hơn vạn quân cứu viện của nhà Minh sang từ Vân Nam, sắp đến thành Tam Giang [Phú Thọ], mà đạo quân do Lễ và Xí chỉ huy chưa kịp đến, bọn Triện e rằng hai đạo quân của địch nếu phối hợp được với nhau thì mình khó chế trị được. Triện bèn chia cho Xảo và Khả hơn nghìn quân, đi thẳng lên trước và đón đường chặn đánh địch; còn mình và bọn Xí đem vài nghìn quân tinh nhuệ, thừa thắng đuổi theo cánh quân của Trí. Khi đến Nhân Mục [quận Thanh Xuân, Hà Nội], bắt sống được đô ti Minh, Vi Lượng, và chém được hơn nghìn thủ cấp địch, rồi lại quay về Ninh Giang, làm thanh thế tiếp ứng cho bọn Xảo. Còn cánh quân của bọn Xảo, khi đến cầu Xa Lộc [huyện Lâm Thao, Phú Thọ], gặp đạo quân của Vương An Lão, đô ti Vân Nam của Minh: quân ta đón đánh, cả phá được địch, chém và bắt được không biết bao nhiêu mà kể. Số quân còn sót lại của địch phải rút vào giữ thành Tam Giang Phú Thọ.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.

Tháng 9 Bình Định Vương để các tướng Lê Ngân và Lê Văn An ở lại vây thành Nghệ An, tự mình đem quân đi tuần Tây Đô, Thanh Hóa:

Trần Trí nhà Minh thấy thành Đông Quan bị cô lập và nguy khốn, vội sai người gấp rút đem thư vào Nghệ An cáo cấp với bọn Phương Chính, để bọn này quay về cứu lấy chỗ căn bản. Bọn Trí bèn để Thái Phúc ở lại giữ Nghệ An, còn Chính thì vượt biển trở ra Đông Quan. Vương liền cho các tướng Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận và Lê Văn Linh lưu lại, góp sức với nhau vây thành Nghệ An, còn Vương chính mình thống suất đại quân, cả thủy lẫn bộ cùng tiến, đuổi theo Phương Chính. Đến Thanh Hóa, Phương Chính phóng thuyền ra khơi, lẩn trốn tận ra xa. Vương bèn đi tuần Tây Đô. Tri châu La Thông đóng chặt cửa thành, không chịu đầu hàng. Vương đóng quân ở Lỗi Giang [huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa], úy lạo các tướng sĩ, ban thưởng cho các bà con và những người cố cựu ở quê nhà. Nhân sĩ và dân chúng ở Thanh Hóa đều tình nguyện tòng quân. Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.

Về phía quân Minh, khi quân Thành sơn hầu Vương Thông đến Quảng Tây, tỉnh này được lệnh trích 5.000 quân tăng phái cho Vương Thông:

Ngày 3 tháng 9 năm Tuyên Đức thứ nhất [13/10/1426]

Sắc dụ quan Tổng binh Quảng Tây Trấn viễn hầu Cố Hưng Tổ rằng: Hãy trích ra 5000 tên trong số quân ngươi quản lãnh, điều đến Giao chỉ, dưới quyền tiết chế của Thành Sơn hầu Vương Thông.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 149)

Cuối tháng 9, Thành sơn hầu Vương Thông đến thành Đông Quan; sau khi tìm hiểu, y tâu về triều trận đánh với Lý Triện, Đô chỉ huy Vi Lượng bị bắt; còn cho biết thêm các viên Chỉ huy Đào Sâm, Tiền Phụ, Thiên hộ Triệu Trinh đều tử trận:

Ngày 29 tháng 9 năm Tuyên Đức thứ nhất [29/10/1426]

Ngày hôm nay quân của bọn Chinh Di Tướng quân Thành sơn hầu Vương Thông đến Giao Chỉ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang150)

Ngày 13 tháng 10 năm Tuyên đức thứ nhất [12/11/1426]

Quan Tổng binh Thành sơn hầu Vương Thông tấu rằng Đô Chỉ huy Vi Lượng hành quân tại Giao Chỉ bị thất lợi. Lúc bấy giờ đồ đảng của Lê Lợi là Lê Thiện chiếm cứ châu Quảng Oai; Sự quan Trần Trí sai Lượng cùng các Chỉ huy Vương Miễn, Tư Quảng mang quân chống cự. Khi quân đến đất này, Lượng muốn vượt sông, nhưng viên quan Thổ quan là Chỉ huy Hà Kháng nói:

 “Chắc bọn chúng đặt phục binh, phải cẩn thận đừng coi thường mà tiến.”

Lượng không nghe, sai Chỉ huy Đào Sâm, Tiền Phụ vượt sông đánh, giặc đặt phục binh và mang quân chặn đoạn hậu; giết Sâm, Phụ, Thiên hộ Triệu Trinh cùng hơn 500 quân, Lượng cũng bị bắt. Thông, cùng Tuần, Án, Ngự sử đem việc này tâu lên. Thiên tử cho rằng Vương Miễn và Tư Quảng không cứu viện, sắc mệnh Thông phạt Miễn, Quảng sung quân lập công chuộc tội; vẫn ra lệnh Thông tiến binh dẹp giặc.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 150)

Tháng 10, các tướng Đinh Lễ, Lê Xí và Lý Triện đại phá quân Vương Thông nhà Minh tại Tốt Động, thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Tây; giết Thượng thư Trần Hiệp, Vương Thông bị thương, bèn rút chạy vào thành. Vua Lê Lợi từ Thanh Hóa tiến quân đến Thanh Đàm Thanh Trì, Hà Nội, chuẩn bị đánh thành Đông Quan:

Bấy giờ nhà Minh sai Thành Sơn hầu Vương Thông làm chinh di tướng quân, và đô đốc Mã Anh làm tham tướng, đem năm vạn quân sang cứu Đông Quan [Hà Nội], bóc hết chức tước của bọn Trần Trí và Phương Chính, cho sung làm sự quan, lệ thuộc trong quân để lập công chuộc tội; còn Trần Hiệp thì vẫn cho làm tham tán quân vụ. Tất cả đều ở dưới quyền chỉ huy của Thông. Thông mới đến, tinh thần rất hăng, điều động tất cả mười vạn quân, cùng bọn Hiệp chia làm ba đường, đồng thời xuất phát. Thông đóng ở bến Cổ Sở[11] [huyện Hoài Đức, Hà Tây]; Phương Chính đóng ở Sa Đôi[12] [huyện Từ Liêm, Hà Nội]; Mã Kỳ đóng ở Thanh Oai [Hà Tây]. Doanh trại của chúng đằng dăng đến vài mươi dặm, cờ xí rợp cả đồng nội. Chúng tự cho rằng chỉ một chuyến này có thể dẹp yên được. Các tướng Triện và Bí từ Ninh Kiều tiến đến Sốm[13] [huyện Thanh Oai, Hà Tây], chia quân và voi cho mai phục sẵn để đợi giặc. Họ cho toán du binh[14] xông xáo đến sát trại Mã Kỳ, khiêu chiến, giả cách thua chạy. Mã Kỳ lùa hết quân đuổi theo. Khi chúng đến cầu Ba La[15] [thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây]: quân phục của ta nổi dậy, đánh cắt ngang trận địch. Quân Minh tan vỡ, chạy bừa, sa lầy, bị chém hơn nghìn thủ cấp. Quân ta ruổi dài đến cống Mọc [quận Thanh Xuân, Hà Nội], bắt được hơn năm trăm địch. Thây giặc rải rác đến vài mươi dặm. Mã Kỳ chỉ kịp một người một ngựa trốn về. Các tướng Lý Triện thừa thắng, muốn chẹn phía sau Phương Chính, nhưng Phương Chính đã rút quân lui rồi. Bấy giờ trời đã chiều hôm, các tướng bên ta phải đem quân quay về. Bọn Kỳ và Chính nhân lúc ban đêm, lén đem quân đến hội với Vương Thông.

Ngày hôm sau, các tướng Lý Triện đến bến Cổ Sở, bổ vây quân Thông. Trước đó, Thông đã đặt quân mai phục, và đã đan tre làm cái khiên, phía trong khiên có cài chông sắt. Khi thoạt giao chiến, quân của Thông đã quăng bỏ khiên, giả vờ chạy. Bọn Triện đuổi theo: voi giẫm phải chông, không lợi. Bọn Triện bèn thu quân vào giữ Cao Bộ[16] [xã Trung Hòa, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây].

Nghe nói các tướng Đinh Lễ và Lê Xí đang đóng quân ở Thanh Đàm [Thanh Trì, Hà Nội], Triện liền sai báo gấp cho họ đến tiếp ứng. Bọn Lễ và Xí lựa lấy ba nghìn quân tinh nhuệ và hai thớt voi, tức tốc ngay ban đêm, đến hội quân ở Cao Bộ. Họ chia quân đặt phục ở Tốt Động và Chúc Động [Chúc Sơn, xã Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ, Hà Tây]. Bắt được gián điệp của địch, ta biết rằng Thông đã tiến đóng ở Ninh Kiều, ngầm cho kỳ binh[17] đi rảo đến phía sau quân Triện, còn chính binh[18] của Thông thì sẽ qua sông tiến lên phía trước. Chúng hẹn nhau rằng hễ nghe nổ pháo thì các đạo quân địch đồng thời đánh khép lại. Hồi trống canh năm đêm ấy, bọn Lễ sai quân nổ pháo ở nơi yếu hại để đánh lừa địch. Địch nghe tiếng pháo, mọi đứa đều đổ xô đi chiếm lấy thuận lợi. Chúng lùa quân đi tắt vào. Bấy giờ trời mưa, đường lầy lội. Chúng kéo đến Tốt Động, bị quân phục của ta bốn bề nổi dậy. Quân ta hợp sức lại, hăng hái chiến đấu, cả phá được địch: chém thượng thư Trần Hiệp và nội quan Lý Lượng. Ta lại đuổi kẻ chạy, dượt kẻ thua, hoặc giết chết, hoặc bắt sống. Quân Minh cùng giày đạp chồng chất lên nhau, chết đến hơn năm vạn. Số quân địch chết đuối cũng rất nhiều, làm nghẽn cả khúc sông Ninh Giang. Ta bắt sống được hơn một vạn địch, tước được quân nhu và khí giới vô kể. Bọn Chính và Kỳ chạy trốn. Thông bị thương, chạy về Đông Quan, đóng chặt cửa thành, cố giữ.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.

Chiến thắng lớn quá, ngoài sức tưởng tượng của các quan soạn sử nhà Nguyễn, khiến họ không tin nổi, nên viết lời “Cẩn án” như sau:

Lời cẩn án – Chiến dịch Tốt Động, bọn Vương Thông thống suất hàng mười vạn quân, tinh thần sắc bén gấp hàng trăm lần. Các tướng Lý Triện chỉ có vài nghìn người. Một đám cô quân vào sâu trong trận địch, thế mà nhiều lần thừa thắng, đánh được giặc một cách độc nhất. Như vậy không khỏi có điều đáng ngờ. Bọn Lưu Nhân Chú và Bùi Bị được phân phối đi tuần đường khác, không kịp tiếp ứng: nói thế cũng còn xuôi xuôi. Đến như Đinh Lễ, Lê Xí vâng lệnh cầm quân, thực tế là phải đương đầu với cả phía chính diện của thành Đông Quan. Bấy lâu đang đóng ở Thanh Đàm, vốn không có sự cách trở vì thành lũy cao hay mặt trận vững của địch, thế mà lần đầu thì thắng ở Ninh Kiều và Xa Lộc, lần thứ hai lại thắng ở Ba La, trước sau không hề được một tên quân nào đến tiếp ứng cả. Kịp khi bọn Triện đánh giặc không lợi, sai người cấp báo, bấy giờ mới có cuộc hội quân ở Cao Bộ. Tình hình đương thời ra sao, thực có điều không thể hiểu được. Chỉ vì sử sách thiếu sót, không thể chất chính vào đâu cả. Nay xin kính cẩn chép theo Sử cũ, còn thì xin để khuyết nghi.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.

Điều mà Sử thần nhà Nguyễn nghi ngờ, thì sử đối phương lại công nhận. Chỉ khác về thời gian đúng 1 tháng; Minh Thực Lục ghi ngày ngày 6 tháng 11 năm Bính Ngọ; riêng Toàn Thư ghi ngày 6 tháng 10 năm Bính Ngọ; có thể chép lầm, hoặc giả lịch Đại Việt trước đó có ghi tháng nhuần, nên lùi 1 tháng? Minh Thực Lục chép quân Minh đã thua to, Thượng thư Trần Hiệp, Đô chỉ huy Lý Đằng tử trận, Vương Thông bị thương; Vua Lê Lợi từ Thanh Hóa mang quân đến đóng tại Thanh Trì, sát nách thành Đông Quan, chuẩn bị đánh thành:

Ngày 6 tháng 11 năm Tuyên Đức thứ nhất [4/12/1426]

Ngày hôm nay quan Tổng binh Thành sơn hầu Vương Thông tiến binh đánh giặc, bị thua to, giặc bèn vây thành Đông Quan. Trước đó tướng giặc Lê Thiện chia quân làm 3 đạo, tới đánh thành Giao Chỉ. Một đạo từ cửa phía tây đánh vào thành đất Thanh Oai, một đạo từ Giáo Trường đánh Hạ Quan; bị Đô đốc Trần Tuấn dùng súng lửa, hỏa tiễn đánh lui; một đạo đánh vào cửa nhỏ tại ven sông gặp Sự quan Lý An mang quân tinh nhuệ giao chiến, giặc bị chết rất nhiều, nửa đêm bèn rút lui.

Lúc này Thông điều quân chia đường mà tiến. Tham tướng Đô đốc Mã Ánh mang quân đến Thanh Oai gặp giặc, đánh bại chúng. Rồi đến huyện Thạch Thất họp quân với Thông, cả hai mang quân đến huyện Ứng Bình [huyện Chương Mỹ, Hà Tây] trú quân tại Ninh Kiều. Các tướng nói đất này hiểm trở nên lập trại để xem tình hình, không nên coi thường mà tiến. Thông không nghe, cho điều quân qua cầu, đường sá lầy trơn, người ngựa lặn lội, phục binh nỗi lên, quan quân bị bại; Thượng thư Trần Hiệp chết, Đô Chỉ huy Lý Đằng bị chết vào tay giặc, Thông trúng thương nên quay về. Lê Lợi tại Nghệ An nghe tin bèn mang đại quân tới Thanh Đàm, đánh các xứ tại Bắc Giang, rồi vây thành Đông Quan. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 150)

Về sự thực, được sứ hai nước trân trọng chép, nhưng Sử quan triều Tự Đức tỏ vẻ nghi ngờ; có thể hiểu được như sau. Dưới triều Tự Đức, vua quan nhà Nguyễn xa lìa dân chúng, đất nước loạn lạc liên miên; đa số dân chống đối, hoặc lạnh nhạt với triều đình. Đối phó với thực dân Pháp bấy giờ, nhà nước không vận dụng được sức mạnh của nhân dân, rốt cuộc thua hết trận này đến trận khác; bàn đến điểm yếu về quân sự, họ chỉ biết tin vào thuyết khả năng, quân nhiều thắng quân ít, “ưu thắng liệt bại”; những bộ óc đó khó có thể hiểu được sức mạnh nhân dân. Đạo quân được dân ủng hộ, dân làm tai mắt, lớn nhanh như cậu bé Phù Đổng, có sức dời non lấp bể, làm nên chiến thắng lẫy lừng. Như dưới đời Trần:

Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng.” Bình Ngô Đại Cáo.

Hoặc đời Lê:

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước. Gớm ghê thay! sắc phong vân cũng đổi; thảm đạm thay! sáng nhật nguệt phải mờ.” Bình Ngô Đại Cáo.

———————–

[1] Khám hợp: Văn bản xét thành tích xem có đủ tiêu chuẩn để làm quan hay không.

[2] Sự quan: quan lại bị tội, được tạm thời làm việc để lập công chuộc tội.

[3] Khăn yếm: dịch chữ “cân quắc”. Cân quắc là đồ trang sức trên đầu của đàn bà. Xưa Gia Cát Lượng đi đánh Ngụy, đem quân đến đồng bằng phía nam sông Vị Thủy, khiêu chiến mãi, Tư Mã Ý không dám ra đánh. Lượng sai đưa cho Ý những khăn của đàn bà để làm nhục (Tấn T).

[4] Điếu dân phạt tội nghĩa là thương dân sống khổ mà đánh kẻ có tội để cứu dân. Mượn tiếng điếu dân phạt tội ý chỉ nhà Minh giả danh đánh kẻ thoán nghịch là họ Hồ, phù lập họ Trần, rồi đem quân sang chiếm nước ta.

[5] Đại tang, theo tục là chỉ tang cha mẹ, nhưng lời chú ở sách Chu lễ thì đại tang là tang nhà vua, hoàng hậu và thế tử. “Kế tiếp đại tang” ở đây là nói tang vua Minh; tháng 8 năm 1424 Minh Thành Tổ chết, thái tử là Cao Xý lên nối ngôi tức vua Minh Nhân Tông; tháng 7 năm 1425 Minh Nhân tông lại chết, thái tử là Chiêm Cơ lên nối ngôi tức vua Minh Tuyên Tông.

[6] Cùng binh độc vũ: sính dùng vũ lục, đánh nhau không thôi.

[7] Tiêu tường: tiêu là nghiêm kính, tường là cái bình phong xây ở bên trong cổng. Theo lễ xưa, vua tôi tiếp kiến nhau, đến chỗ bình phòng thì càng nghiêm kính, vì thế mới gọi là tiêu tường. Thường dùng tiêu tường chỉ bên trong. Sách Luận Ngữ, Khổng tử có nói: “Ngô khủng Quý tôn chi ưu, bất tại Chuyên Du, nhi tại tiêu tường chi nội dã” (Ta e mối lo của họ Quý tôn không ở nước Chuyên Du, mà ở nơi tiêu tường vậy). Ý nói mối lo không ở bên ngoài, mà lại ở bên trong.

[8] Cầu Xa Lộc: tục gọi là cầu Ròng Rọc ở gần làng Tứ Xã, huyện Lâm Thao, nay thuộc tỉnh Phú Thọ.

[9] Nhân Mục: Tức làng Mọc, nay là phường Nhân Chính quận Thanh Xuân, Hà Nội.

[10] Ninh Kiều: là vùng Ninh Sơn, xã Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay. Đây là một vị trí trọng yếu và hiểm trở nằm trên đường thượng đạo từ Đông Quan vào Thiên Quan và Thanh Hóa.

[11] Bến Cổ Sở: tức bến Giá ở xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Tây ngày nay.

[12] Cầu Sa Đôi: cầu bắc ngang sông Nhuệ còn gọi là cầu Đôi ở phía tây xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội.

[13] Sốm: Cổ Lãm, tức tổng Thắng Lãm, tên nôm là Sốm, nay gồm các xã Phú Lâm, Phú Cường, Văn Khê, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.

[14] Du binh: quân lưu động, tiền thám.

[15] Ba La: Nguyên văn là “Tam La kiều”. Cái cầu chỗ giáp giới ba làng La, tức là La Khê, La Cả và La Nội, nay thuộc xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây.

[16] Cao Bộ: tên nôm là làng Bụa, thuộc xã Trung Hòa, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay.

[17] Kỳ binh: Toán quân xuất kỳ bất ý, ập đánh đối phương khi không phòng bị hoặc không lường tính được trước.

[18] Chính binh: Toán quân đường đường chính chính ra trận đánh nhau với đối phương.