Nguồn: Francis Fukuyama, “A Country of Their Own”, Foreign Affairs, 01/04/2022
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Chủ nghĩa tự do đang gặp nguy hiểm. Các nguyên tắc cơ bản của xã hội tự do – là chấp nhận sự khác biệt, tôn trọng các quyền cá nhân, pháp quyền, và nhiều nguyên tắc khác – đang bị đe dọa, khi thế giới chịu ảnh hưởng từ thứ có thể gọi là suy thoái dân chủ, hoặc thậm chí là khủng hoảng dân chủ. Theo tổ chức Freedom House, các quyền chính trị và tự do dân sự trên khắp thế giới đã giảm đều mỗi năm trong suốt 16 năm qua. Sự suy tàn của chủ nghĩa tự do thể hiện rõ qua sức mạnh ngày một lớn của các chế độ chuyên chế như Trung Quốc và Nga, sự sa sút của các thể chế tự do – hay tự do trên danh nghĩa – ở các nước như Hungary và Thổ Nhĩ Kỳ, và sự thụt lùi của các nền dân chủ tự do như Ấn Độ và Mỹ.
Với từng trường hợp trong số này, chủ nghĩa dân tộc đã thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa phi tự do. Các nhà lãnh đạo phi tự do, các đảng của họ, và các đồng minh của họ đã sử dụng luận điệu chủ nghĩa dân tộc để mở rộng quyền kiểm soát xã hội. Họ tố cáo đối thủ của mình là giới tinh hoa lạc lõng, hay những nhà toàn cầu thất bại. Họ tự xưng là người đại diện đích thực và người bảo vệ đích thực của đất nước. Đôi khi, các chính trị gia phi tự do sẽ khắc họa những người đồng cấp tự do là kẻ làm việc kém hiệu quả và xa cách khỏi cuộc sống của những người mà họ đáng lẽ phải đại diện. Nhưng thông thường, các chính trị gia phi tự do sẽ mô tả các đối thủ tự do không đơn thuần là đối thủ chính trị, mà là một thứ nguy hiểm hơn nhiều: kẻ thù của nhân dân.
Bản chất của chủ nghĩa tự do khiến nó dễ bị tấn công bởi lập luận này. Nguyên tắc cơ bản nhất được ghi nhận trong chủ nghĩa tự do là nguyên tắc về sự khoan dung: nhà nước không quy định niềm tin, danh tính, hay bất kỳ loại giáo điều nào khác. Kể từ khi nó xuất hiện vào thế kỷ 17, như một nguyên tắc tổ chức cho chính trị, chủ nghĩa tự do đã cố tình hạ thấp tầm nhìn của chính trị, để không nhắm đến “cuộc sống tốt đẹp” (the good life) như được định nghĩa bởi một tôn giáo, học thuyết đạo đức, hoặc truyền thống văn hóa cụ thể nào, mà chỉ nhằm bảo vệ chính cuộc sống, trong bối cảnh người ta không thể đồng ý với nhau một cuộc sống tốt đẹp có nghĩa là gì. Bản chất bất khả tri này tạo ra một khoảng trống về mặt tinh thần (spiritual vacuum), khi mỗi cá nhân đi theo con đường riêng của mình, và chỉ trải nghiệm một ý thức cộng đồng rất mong manh. Các trật tự chính trị tự do đòi hỏi chia sẻ các giá trị, chẳng hạn như khoan dung, thỏa hiệp, và cân nhắc, nhưng những giá trị đó không bồi đắp thứ liên kết tình cảm bền chặt được tìm thấy trong các cộng đồng tôn giáo và cộng đồng sắc tộc gắn bó chặt chẽ với nhau. Quả vậy, các xã hội tự do thường khuyến khích việc mù quáng theo đuổi sự tự thỏa mãn vật chất.
Điểm thu hút quan trọng nhất của chủ nghĩa tự do vẫn là khả năng thực dụng đã tồn tại suốt nhiều thế kỷ: khả năng quản lý sự đa dạng trong các xã hội đa nguyên. Tuy nhiên, các loại đa dạng mà xã hội tự do có thể quản lý bị giới hạn. Nếu có đủ người từ chối các nguyên tắc tự do và tìm cách hạn chế các quyền cơ bản của người khác, hoặc nếu người dân sử dụng bạo lực để đạt được mục đích của mình, thì chỉ riêng chủ nghĩa tự do không thể duy trì trật tự chính trị. Nếu các xã hội đa dạng rời xa các nguyên tắc tự do, và cố gắng thiết lập bản sắc dân tộc dựa trên chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, hoặc một số tầm nhìn khác về bản chất của cuộc sống tốt đẹp, thì các xã hội này có thể phải quay trở lại cảnh xung đột đẫm máu. Một thế giới đầy rẫy những quốc gia như vậy sẽ không tránh khỏi trở nên mong manh hơn, hỗn loạn hơn, và bạo lực hơn.
Đó là lý do tại sao điều quan trọng hơn cả đối với những người theo chủ nghĩa tự do là không từ bỏ ý tưởng về dân tộc (nation). Họ nên nhận ra rằng, trên thực tế, chẳng có gì làm cho tính phổ quát của chủ nghĩa tự do không tương thích với một thế giới của các quốc gia-dân tộc. Bản sắc dân tộc là thứ dễ uốn nắn, và nó có thể được định hình để phản ánh những khát vọng tự do, cũng như để xây dựng ý thức về cộng đồng và mục đích chung trong một nhóm rộng hơn.
Muốn tìm bằng chứng về tầm quan trọng của bản sắc dân tộc, cứ nhìn ngay đến những rắc rối mà Nga gặp phải khi tấn công Ukraine. Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố rằng Ukraine không có bản sắc riêng biệt tách khỏi Nga, và rằng nước này sẽ sụp đổ ngay khi ông tiến hành xâm lược. Ấy thế mà Ukraine lại kiên cường chống Nga, chính xác là bởi các công dân của nước này trung thành với ý tưởng về một Ukraine dân chủ tự do, độc lập, và không muốn phải sống dưới một chế độ độc tài thối nát được áp đặt lên họ. Nhờ bản lĩnh của mình, những công dân đó đã thể hiện rõ rằng họ sẵn sàng chết vì những lý tưởng tự do, nhưng chỉ khi những lý tưởng đó được gắn vào một đất nước mà họ có thể gọi là của riêng mình.
Khoảng trống tinh thần của chủ nghĩa tự do
Các xã hội tự do luôn đấu tranh để đem đến một tầm nhìn tích cực về bản sắc dân tộc cho công dân của chúng. Lý thuyết đằng sau chủ nghĩa tự do đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc vẽ ra ranh giới rõ ràng xung quanh các cộng đồng, và giải thích những ai sẽ thuộc về nhóm nằm bên trong và bên ngoài những ranh giới đó. Nguyên nhân là do lý thuyết được xây dựng trên cơ sở một tuyên bố mang tính phổ quát. Như đã khẳng định trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do, bình đẳng về nhân phẩm và quyền,” và “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do được nêu trong Tuyên bố này, không bị phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào, chẳng hạn như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc các quan điểm khác, quốc tịch hoặc nguồn gốc xã hội, tài sản, xuất thân hay các địa vị khác.” Về mặt lý thuyết, những người theo chủ nghĩa tự do quan tâm đến sự vi phạm nhân quyền, bất kể nó xảy ra ở đâu trên thế giới. Nhiều nhà tự do không thích những ràng buộc cụ thể của chủ nghĩa dân tộc, và thường tưởng tượng mình là “công dân của thế giới”.
Tuyên bố phổ quát có thể khó hòa hợp với việc phân chia thế giới thành các quốc gia-dân tộc. Chẳng hạn, không có lý thuyết tự do nào chỉ rõ cách xác định ranh giới quốc gia, và chính sự thiếu hụt này dẫn đến xung đột nội bộ tự do ở các vùng ly khai như Catalonia, Quebec, và Scotland, cũng như dẫn đến bất đồng về cách đối xử phù hợp với người nhập cư và người tị nạn. Những người theo chủ nghĩa dân túy, chẳng hạn như cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump, đã khiến căng thẳng giữa khát vọng tự do phổ quát với những tuyên bố hẹp hơn của chủ nghĩa dân tộc trở nên vô cùng mạnh mẽ.
Những người theo chủ nghĩa dân tộc phàn nàn rằng chủ nghĩa tự do đã phá bỏ những liên kết của cộng đồng quốc gia, và thay thế nó bằng một chủ nghĩa đại đồng toàn cầu (global cosmopolitanism), vốn quan tâm đến người dân ở các nước xa xôi nhiều như quan tâm đến người dân trong nước. Những nhà dân tộc chủ nghĩa ở thế kỷ 19 đã xác lập bản sắc dân tộc dựa trên cơ sở sinh học và tin rằng cộng đồng quốc gia có nguồn gốc từ tổ tiên chung. Đây tiếp tục là cơ sở cho một số người theo chủ nghĩa dân tộc đương thời, chẳng hạn như Thủ tướng Hungary Viktor Orban, người đã xác định bản sắc dân tộc Hungary dựa trên sắc tộc Magyar. Những nhà dân tộc chủ nghĩa khác, chẳng hạn như học giả người Israel Yoram Hazony, lại cố gắng sửa đổi chủ nghĩa sắc tộc (ethnonationalism) của thế kỷ 20 bằng cách lập luận rằng các quốc gia tạo thành các đơn vị văn hóa nhất quán, cho phép các thành viên của quốc gia đó chia sẻ truyền thống lâu đời về ẩm thực, lễ nghi, ngôn ngữ, và những thứ tương tự. Nhà tư tưởng bảo thủ người Mỹ Patrick Deneen đã khẳng định rằng chủ nghĩa tự do tạo thành một hình thức phản văn hóa, thứ đã làm tan biến mọi hình thức văn hóa tiền tự do, sử dụng quyền lực của nhà nước để tự chen vào kiểm soát mọi khía cạnh của đời sống cá nhân.
Đáng chú ý, Deneen và những người bảo thủ khác đã đoạn tuyệt với các chủ nghĩa tân tự do kinh tế, và công khai đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản thị trường về việc làm xói mòn các giá trị của gia đình, cộng đồng, và truyền thống. Kết quả là, các phạm trù cánh tả và cánh hữu phân chia theo ý thức hệ kinh tế của thế kỷ 20 đã không còn phù hợp với thực tế hiện nay, với các nhóm cánh hữu sẵn sàng sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh cả đời sống xã hội lẫn nền kinh tế.
Có một sự chồng chéo đáng kể giữa những người theo chủ nghĩa dân tộc và những người bảo thủ tôn giáo. Trong số những truyền thống mà các nhà dân tộc chủ nghĩa đương thời muốn bảo vệ có cả những truyền thống tôn giáo. Do đó, Đảng Pháp luật và Công lý ở Ba Lan đã liên kết chặt chẽ với Giáo hội Công giáo Ba Lan, và đã tiếp nhận nhiều lời phàn nàn của nhà thờ có liên quan đến văn hóa, như việc châu Âu tự do ủng hộ phá thai và hôn nhân đồng tính. Tương tự, những người bảo thủ tôn giáo thường xem mình là người yêu nước; điều này chắc chắn đúng đối với các tín đồ Phúc âm (evangelical) ở Mỹ, những người đóng vai trò cốt lõi trong phong trào “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” của Trump.
Lời chỉ trích của nhóm bảo thủ đối với chủ nghĩa tự do – rằng các xã hội tự do không mang đến một cốt lõi đạo đức chung mạnh mẽ, để có thể xây dựng cộng đồng xung quanh nó – là đúng. Đây quả thực là một đặc điểm của chủ nghĩa tự do, chứ không phải là một khuyết điểm. Câu hỏi đặt ra cho những người bảo thủ là: liệu có cách nào khả thi để quay ngược đồng hồ và thiết lập lại trật tự đạo đức vững chắc hơn hay không. Một số người Mỹ bảo thủ hy vọng sẽ quay trở lại một thời kỳ tưởng tượng khi hầu như tất cả mọi người ở Mỹ đều theo đạo Thiên Chúa. Nhưng đa dạng tôn giáo ở các xã hội hiện đại ngày nay lớn hơn rất nhiều so với thời điểm chiến tranh tôn giáo ở châu Âu vào thế kỷ 16. Ý tưởng khôi phục một truyền thống đạo đức chung được xác định bởi niềm tin tôn giáo là một kế hoạch không thể thành công. Các nhà lãnh đạo hy vọng có thể thực hiện được kiểu khôi phục này, chẳng hạn như Narendra Modi, thủ tướng theo chủ nghĩa dân tộc Hindu của Ấn Độ, thực ra đang mời gọi áp bức và bạo lực cộng đồng. Modi biết quá rõ điều này: ông từng là thủ hiến của Gujarat khi bang miền tây này bị tàn phá bởi bạo loạn cộng đồng vào năm 2002, khiến hàng nghìn người chết, chủ yếu là người Hồi giáo. Kể từ năm 2014, khi Modi trở thành thủ tướng, ông và các đồng minh của mình đã tìm cách gắn bản sắc dân tộc Ấn Độ với đạo Hindu và ngôn ngữ Hindi, một sự thay đổi lớn so với chủ nghĩa đa nguyên thế tục của các nhà sáng lập tự do của Ấn Độ.
Vai trò của nhà nước
Các lực lượng phi tự do trên khắp thế giới sẽ tiếp tục sử dụng lời kêu gọi chủ nghĩa dân tộc như một vũ khí bầu cử mạnh mẽ. Các nhà tự do có thể bị cám dỗ, muốn loại bỏ luận điệu này, gọi nó là hiếu chiến và thô thiển. Nhưng họ không nên nhường lại quốc gia cho đối thủ của mình.
Chủ nghĩa tự do, với những giả định phổ quát của nó, có thể không thoải mái khi phải đứng bên cạnh chủ nghĩa dân tộc địa phương, nhưng thực ra hai bên vẫn có thể dung hòa. Các mục tiêu của chủ nghĩa tự do hoàn toàn tương thích với một thế giới được phân chia thành các quốc gia-dân tộc. Mọi xã hội đều cần sử dụng vũ lực, vừa để giữ gìn trật tự bên trong, vừa để bảo vệ khỏi những kẻ thù bên ngoài. Một xã hội tự do thực hiện điều này bằng cách tạo ra một nhà nước hùng mạnh, nhưng sẽ kiềm chế quyền lực nhà nước bằng pháp quyền. Quyền lực nhà nước dựa trên một khế ước xã hội giữa các cá nhân tự chủ, những người đồng ý từ bỏ một số quyền được làm theo ý mình để đổi lấy sự bảo vệ của nhà nước. Nó được chính danh hóa bởi sự chấp nhận luật pháp một cách rộng rãi và, nếu đó là một nền dân chủ tự do, thì còn bởi các cuộc bầu cử phổ thông.
Quyền tự do sẽ là vô nghĩa nếu chúng không thể được thực thi bởi một nhà nước, mà theo định nghĩa nổi tiếng của nhà xã hội học người Đức Max Weber, là sự độc quyền sử dụng vũ lực hợp pháp trên một lãnh thổ xác định. Quyền tài phán theo lãnh thổ của một quốc gia nhất thiết phải tương ứng với khu vực được chiếm giữ bởi nhóm cá nhân đã ký kết khế ước xã hội. Trong khi đó, các quyền của những người sống bên ngoài khu vực tài phán này vẫn phải được nhà nước tôn trọng, nhưng không nhất thiết phải được thực thi.
Do đó, các quốc gia có quyền tài phán lãnh thổ xác định vẫn sẽ là những chủ thể chính trị quan trọng, bởi vì chúng là những chủ thể duy nhất có thể sử dụng vũ lực một cách hợp pháp. Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, quyền lực được sử dụng bởi rất nhiều tổ chức, từ các tập đoàn đa quốc gia đến các nhóm phi lợi nhuận, từ các tổ chức khủng bố, đến các cơ quan siêu quốc gia như Liên minh châu Âu và Liên Hiệp Quốc. Nhu cầu hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề như sự ấm lên toàn cầu và đại dịch chưa bao giờ rõ ràng hơn thế. Nhưng một dạng quyền lực cụ thể, khả năng thực thi các quy tắc thông qua đe dọa hoặc thực sự sử dụng vũ lực, vẫn nằm dưới sự kiểm soát của các quốc gia-dân tộc. Cả Liên minh Châu Âu và Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế đều không thể triển khai cảnh sát hoặc quân đội của riêng mình nhằm thực thi các quy tắc mà họ đặt ra. Các tổ chức như vậy vẫn phụ thuộc vào năng lực cưỡng chế của các quốc gia đã trao quyền cho họ. Chắc chắn, ngày nay có một khối lượng luật quốc tế rộng lớn thay thế cho luật quốc gia trong nhiều lĩnh vực, ví dụ trường hợp Luật pháp Chung (acquis communautaire) của Liên minh Châu Âu, được xem như một loại luật chung để điều phối thương mại và giải quyết tranh chấp. Nhưng rốt cuộc, luật pháp quốc tế vẫn phụ thuộc vào việc thực thi ở cấp quốc gia. Khi các thành viên EU bất đồng về các vấn đề quan trọng trong chính sách, như những gì xảy ra trong khủng hoảng đồng euro năm 2010 và khủng hoảng người di cư năm 2015, kết quả không được quyết định bởi luật pháp châu Âu mà bởi quyền lực tương đối của các quốc gia thành viên. Nói cách khác, quyền lực tối cao tiếp tục nằm trong tay các quốc gia-dân tộc, theo đó có nghĩa là việc kiểm soát quyền lực ở cấp độ này vẫn còn rất quan trọng.
Do đó, không nhất thiết phải có mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tự do phổ quát và nhu cầu về các quốc gia-dân tộc. Dù nhân quyền có thể là một giá trị chuẩn mực phổ quát, nhưng quyền lực thực thi giá trị đó thì không; nó là một nguồn tài nguyên khan hiếm nhất thiết phải được áp dụng trên một lãnh thổ xác định. Một nhà nước tự do hoàn toàn có lý khi trao các mức quyền khác nhau cho công dân và những người không phải công dân, bởi vì nhà nước ấy không có nguồn lực hoặc luật pháp để bảo vệ các quyền này một cách phổ quát. Tất cả mọi người sinh sống trong lãnh thổ của một nhà nước đều được pháp luật bảo vệ bình đẳng, nhưng chỉ công dân mới là người tham gia đầy đủ vào khế ước xã hội, có các quyền và nghĩa vụ đặc biệt, cụ thể là quyền bầu cử.
Thực tế rằng các quốc gia vẫn là trung tâm của quyền lực cưỡng chế nên khuyến khích chúng ta thận trọng trước đề xuất thành lập các cơ quan siêu quốc gia mới và trao quyền lực đó vào tay họ. Các xã hội tự do đã có hàng trăm năm kinh nghiệm học cách kiềm chế quyền lực ở cấp quốc gia thông qua các thể chế pháp quyền và lập pháp, cũng như cách cân bằng quyền lực để việc sử dụng nó phản ánh lợi ích chung. Tuy nhiên, các xã hội này chưa biết làm thế nào để tạo ra các thể chế như vậy ở cấp độ toàn cầu, nơi mà – ví dụ – một tòa án hoặc một cơ quan lập pháp toàn cầu có thể trở thành đối trọng với các quyết định độc đoán của một cơ quan hành pháp toàn cầu. Liên minh châu Âu là sản phẩm của nỗ lực nghiêm túc nhất nhằm thực hiện điều này ở cấp độ khu vực, kết quả thu về là một hệ thống ngượng ngập, đặc trưng bởi sự yếu kém quá mức trong một số lĩnh vực (chính sách tài khóa, đối ngoại) và mạnh mẽ quá mức trong những lĩnh vực khác (điều tiết kinh tế). Châu Âu chí ít còn có một lịch sử và bản sắc văn hóa chung – thứ không tồn tại ở cấp độ toàn cầu. Các thể chế quốc tế như Tòa án Công lý Quốc tế và Tòa án Hình sự Quốc tế vẫn đang dựa vào các quốc gia để thực thi phán quyết của họ.
Nhà triết học người Đức Immanuel Kant đã tưởng tượng ra một nền “hòa bình vĩnh cửu” (perpetual peace), trong đó một thế giới tạo nên bởi các quốc gia tự do sẽ điều chỉnh các mối quan hệ quốc tế thông qua luật pháp, thay vì sử dụng bạo lực. Cuộc xâm lược Ukraine của Putin, thật không may, đã chứng tỏ rằng thế giới vẫn chưa đạt đến thời điểm hậu lịch sử này, và rằng sức mạnh quân sự vẫn là công cụ tối thượng để bảo đảm hòa bình cho các nước theo chủ nghĩa tự do. Do đó, quốc gia-dân tộc với tư cách là nhân tố quan trọng trong nền chính trị toàn cầu sẽ khó có thể biến mất.
(Còn tiếp một phần)
Francis Fukuyama là Nghiên cứu viên cấp cao tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli tại Đại học Stanford. Bài viết này được tóm gọn từ cuốn sách sắp xuất bản của ông “Liberalism and Its Discontents” (Farrar, Straus and Giroux, 2022).