Nguồn: Sergey Radchenko, “China Doesn’t Want to Lead an Axis,” Foreign Affairs, 18/02/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Bắc Kinh vẫn có những nghi ngờ sâu sắc đối với Nga và Triều Tiên.
Tuyên bố năm 2022 của Trung Quốc và Nga về quan hệ đối tác “không giới hạn” và “không có khu vực ‘cấm’” đã có tác động sâu rộng. Thỏa thuận ngụ ý rằng Bắc Kinh và Moscow sắp khôi phục lại liên minh đã tan rã từ lâu của họ, vốn từng ràng buộc hai cường quốc trong một thời gian ngắn vào thập niên 1950, theo đó trở thành một mối đe dọa đáng gờm mà Mỹ không thể để yên.
Dù hai bên vẫn có bất đồng, nhưng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã gọi Tổng thống Nga Vladimir Putin là “người bạn thân mến” của mình và, vào tháng 03/2023, được cho là từng nói với Putin rằng hai người đang cùng nhau “thúc đẩy những thay đổi chưa từng thấy trong một thế kỷ.” Các cuộc gặp thường xuyên của họ đã dẫn đến một loạt các tuyên bố làm nổi bật sự phản đối chung đối với “chủ nghĩa bá quyền” – một cách để gọi sự thống trị của Mỹ – và hứa hẹn một trật tự quốc tế “công bằng” hơn. Theo lời Đại sứ Nga tại Trung Quốc, Igor Morgulov, Tập đã chấp nhận lời mời của Putin đến tham dự lễ kỷ niệm Ngày Chiến thắng tại Moscow vào tháng 05/2025. Và quan hệ đối tác của họ đã vượt ra ngoài những lời nói và biểu tượng: Trung Quốc đã cung cấp hỗ trợ vật chất cho cuộc chiến xâm lược tàn bạo của Nga ở Ukraine dưới hình thức các công nghệ lưỡng dụng, có cả ứng dụng quân sự và thương mại, cũng như mua dầu và khí đốt của Nga.
Tuy nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn còn mâu thuẫn về Nga, lo sợ sẽ bị vướng vào các âm mưu cực đoan chống phương Tây của Putin, và lo ngại về viễn cảnh một cuộc chiến tranh lạnh mới mà Trung Quốc không muốn tham gia và cũng không biết cách chiến đấu. Bắc Kinh không muốn cam kết tham gia liên minh Trung-Nga chính thức và gay gắt phản đối ý tưởng rằng họ thuộc về một “trục” nào đó cùng với Nga, Triều Tiên, và Iran. Trong khi đó, chế độ của Kim Jong Un ở Bình Nhưỡng đang ngày càng trở thành nguồn gây khó chịu chính ở Bắc Kinh.
Tháng 01/2025, tôi đã tham gia các cuộc thảo luận tại Bắc Kinh và Tam Á ở Trung Quốc, do Đại học Thanh Hoa tổ chức, nhằm phục vụ như một hình thức ngoại giao Kênh II, một hoạt động mà các thành viên xã hội dân sự phi nhà nước từ nhiều quốc gia đến gặp nhau để thảo luận về quan hệ giữa các chính phủ của họ. Cuộc đối thoại này đã quy tụ các học giả, cựu quan chức cấp cao, và cựu nhà ngoại giao từ Trung Quốc, Nga, và Mỹ đến để có những cuộc trò chuyện sôi nổi nhưng hiệu quả.
Một kết luận nổi bật đã xuất hiện từ các cuộc đàm phán này: lý do chính khiến Bắc Kinh dường như không muốn xây dựng một liên minh ba bên với Nga và Triều Tiên là vì một thỏa thuận như vậy sẽ đòi hỏi sự lãnh đạo chiến lược của Trung Quốc, và Bắc Kinh chắc chắn không quan tâm đến viễn cảnh đó. Một phần là vì bất kỳ trục nào do Bắc Kinh dẫn đầu đều đòi hỏi một nhiệm vụ mà trong đó các đồng minh của họ có thể đoàn kết – và không ai ở Bắc Kinh biết nhiệm vụ đó nên là gì.
Sự do dự của Trung Quốc trong việc lãnh đạo một liên minh gồm các đối tác không đáng tin cậy trong cuộc đấu tranh chống lại phương Tây cho thấy các nhà lãnh đạo của họ nhận thức rõ cái giá đắt đỏ của cuộc đối đầu và đang tìm cách phòng bị nước đôi. Chính sách ngoại giao phi truyền thống của Tổng thống Donald Trump, kết hợp các luận điệu hiếu chiến và đe dọa chiến tranh kinh tế với lời hứa hợp tác giữa các cường quốc gồm Trung Quốc và Nga, đã làm tăng thêm sự không chắc chắn ở Bắc Kinh về hướng đi kế tiếp của Mỹ. Do đó, Washington đang nắm trong tay cơ hội vàng để thử nghiệm ý định của Trung Quốc thông qua các nỗ lực ngoại giao mới, ngay cả trong lúc họ chuẩn bị cho chính sách kiềm chế.
SỰ HỐI HẬN CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
Các cuộc tham vấn mà tôi tham dự chủ yếu tập trung vào vấn đề quan hệ của Trung Quốc với chế độ bất hảo ở Triều Tiên. Theo quan điểm của các thành viên tham dự người Trung Quốc, Bắc Kinh không khuyến khích việc Kim xoay trục sang Nga gần đây, vốn lên đến đỉnh điểm là một hiệp ước liên minh với Nga vào tháng 06/2024. Bắc Kinh thậm chí có lẽ còn không được tham vấn trước về động thái này. Tập cũng không chấp thuận sự tham gia trực tiếp của Triều Tiên vào cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine, bao gồm việc triển khai khoảng 10.000 binh lính Triều Tiên đến khu vực Kursk của Nga để đẩy lùi cuộc xâm nhập của Ukraine. Động thái này cho thấy Kim đã sẵn sàng và có khả năng hành động độc lập với Bắc Kinh, dù ông vẫn tiếp tục sử dụng thương mại với Trung Quốc để duy trì sự tồn tại của chế độ của mình. Khi cung cấp quân đội và một lượng lớn đạn dược cho Putin, Kim đã cố tình cho Tập thấy rằng ông không phải là chư hầu của Trung Quốc.
Trong khi đó, các thành viên tham dự người Nga tại các cuộc tham vấn này lại than thở về sự thiếu phối hợp giữa Trung Quốc, Triều Tiên, và Nga. Putin – người thường xuyên gặp gỡ với Tập và Kim, dù là riêng với từng người – muốn tổ chức một hội nghị thượng đỉnh ba bên để xây dựng quan hệ chặt chẽ hơn giữa cả ba nước. Nhưng Tập và Kim đã không gặp nhau kể từ năm 2019. Trước đây họ đã từng tổ chức các cuộc tham vấn ba bên, lần gần đây nhất là vào tháng 10/2018, nhưng Triều Tiên hiện đang phản đối các cuộc họp như vậy, ưa thích sự đồng hành của Nga hơn là Trung Quốc.
Bắc Kinh cũng không muốn tạo ra một khối mới ở Đông Á, một phần vì sợ rằng điều đó sẽ khiến Nhật Bản, Hàn Quốc, và Mỹ xây dựng một khối chống Trung Quốc công khai hơn. Người Trung Quốc cũng lo lắng, nhiều hơn người Nga, về chương trình hạt nhân của Triều Tiên. Moscow đã thực dụng cam chịu một Triều Tiên sở hữu vũ khí hạt nhân. Nhưng sau khi nhận ra những tác động lan tỏa tiềm tàng ở Nhật Bản và Hàn Quốc – những nước có thể bị thúc đẩy để bắt đầu các chương trình hạt nhân của riêng mình – Bắc Kinh có lẽ muốn nối lại các cuộc đàm phán phi hạt nhân hóa với Bình Nhưỡng, ngay cả khi mục tiêu về một Bán đảo Triều Tiên không có vũ khí hạt nhân dường như nằm ngoài tầm với. Một số thành viên tham dự người Trung Quốc bày tỏ lo ngại về sự hiếu chiến của Triều Tiên, bao gồm khả năng chế độ Kim sẽ tiến hành các hành động khiêu khích quân sự chống lại Hàn Quốc. Không có gì ngạc nhiên khi Trung Quốc lo sợ bị lôi kéo vào một cuộc xung đột bởi một quốc gia phụ thuộc bất ổn, khó lường, và nhìn chung là không đáng tin cậy – cho dù đó là Triều Tiên hay Nga.
Sự chần chừ của Trung Quốc trong việc trở thành người cầm cờ lãnh đạo Bình Nhưỡng không phải là mới. Tháng 03/1990, khi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Giang Trạch Dân, đến thăm Triều Tiên, Tổng bí thư Kim Nhật Thành (Kim Il Sung) đã hứa với ông rằng “nhân dân Triều Tiên sẽ kiên định tiếp tục giương cao ngọn cờ cách mạng và xã hội chủ nghĩa… và sát cánh chiến đấu với nhân dân Trung Quốc trong sự nghiệp chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội.” Ông hy vọng rằng, sau sự sụp đổ của Liên Xô, Trung Quốc sẽ lãnh đạo cuộc đấu tranh thay mặt cho sự nghiệp Cộng sản. Nhưng Bắc Kinh đã không vội vàng tiếp tục cầm ngọn cờ đã bị vứt bỏ của chủ nghĩa xã hội Liên Xô, và thay vào đó tập trung vào cải cách kinh tế và triển khai chính sách đối ngoại thực dụng, được gọi là thao quang dưỡng hối (“ẩn mình chờ thời”). Trung Quốc sau đó đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc, và dù Bắc Kinh không cắt đứt quan hệ với Bình Nhưỡng, nhưng quan hệ này đã không bao giờ quay trở lại mức độ thân mật như thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh, khi hai bên cùng nhau chiến đấu chống lại Mỹ. Theo lời của nhà lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông, Trung Quốc và Triều Tiên sẽ không bao giờ còn “gần gũi như môi với răng” nữa.
THIẾU VẮNG TÍN HIỆU
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể đang tìm kiếm bài học từ lần đối đầu cuối cùng của các siêu cường. Các nhà sử học có những câu trả lời mâu thuẫn về lý do tại sao Chiến tranh Lạnh bắt đầu: liệu Joseph Stalin có chủ tâm muốn điều đó xảy ra, hay nó là một tai nạn đáng tiếc. Có vẻ hợp lý khi cho rằng điều mà Stalin thực sự muốn là một sự thỏa hiệp giữa các cường quốc với Mỹ, theo đó Moscow và Washington sẽ tôn trọng phạm vi ảnh hưởng của nhau. Vấn đề bắt đầu nảy sinh khi Washington và Stalin bất đồng quan điểm về việc phạm vi ảnh hưởng của Moscow nên mở rộng đến đâu ở châu Âu và châu Á. Đáp lại những gì mà họ cho là hành động gây hấn của Moscow, Washington đã theo đuổi chính sách ngăn chặn vì lo ngại đánh giá thấp tham vọng bành trướng của Stalin.
Tình thế lưỡng nan khó khăn của Bắc Kinh hiện nay là họ không biết làm cách nào để trấn an người Mỹ rằng họ không tìm kiếm một cuộc chiến tranh lạnh khác dù họ đang tích cực chuẩn bị cho một cuộc chiến. Việc Trung Quốc không ngừng tăng cường kho vũ khí hạt nhân, các hoạt động gián điệp thù địch, lời lẽ hiếu chiến, và trên hết, là sự ủng hộ của họ đối với Nga cho thấy Tập đã có quyết định của mình và một cuộc đối đầu với Mỹ là điều không thể tránh khỏi.
Quan hệ của Trung Quốc với Nga và Triều Tiên vẫn hữu ích trong cuộc đấu tranh chống lại bá quyền phương Tây. Các nhà chiến lược Trung Quốc đang suy nghĩ theo những phương trình địa chính trị đơn giản: Mỹ, lãnh đạo phương Tây, đang cố gắng hạ bệ Trung Quốc; Putin đang đối đầu với phương Tây thông qua cuộc chiến ở Ukraine; do đó, Putin đang giúp đỡ Trung Quốc và không thể bị bỏ rơi. Tương tự, Trung Quốc sẽ không hoàn toàn từ bỏ Triều Tiên, không phải vì họ chấp thuận Kim Jong Un, mà vì ông vẫn là một vũ khí có giá trị để chống lại Mỹ.
Mặt khác, việc đầu tư quá nhiều vào quan hệ với một nước Nga hiếu chiến sẽ khiến Bắc Kinh bị bó buộc. Cái ôm thể hiện tình huynh đệ của Tập dành cho Putin đã làm tổn hại đến vị thế của Trung Quốc ở châu Âu: vào tháng 12/2024, Ngoại trưởng Đức Annalena Baerbock đã chỉ trích Trung Quốc vì “chống lại các lợi ích cốt lõi của châu Âu bằng viện trợ kinh tế và vũ khí cho Nga,” còn Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã gây sức ép buộc Tập phải hạn chế hỗ trợ cho Moscow trong các cuộc hội đàm của họ vào tháng 05/2024. Xét đến quan hệ thương mại trị giá 762 tỷ đô la của Trung Quốc với Liên minh châu Âu, vốn ngày càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc trì trệ, các nhà chiến lược ở Bắc Kinh phải tự hỏi liệu sự phân cực kinh tế đi kèm với một cuộc chiến tranh lạnh mới có thực sự là vì lợi ích của Trung Quốc hay không. Về phần mình, Ngoại trưởng Vương Nghị đã nỗ lực hết sức tại Hội nghị An ninh Munich tháng 02/2025 để trấn an các nhà lãnh đạo châu Âu rằng Bắc Kinh không có kế hoạch lật đổ trật tự toàn cầu hiện tại.
Tuy nhiên, như kinh nghiệm của thế kỷ hiện tại và trước đây đã chỉ ra, quan hệ kinh tế không thể ngăn cản xung đột giữa các cường quốc. Canh bạc liều lĩnh của Putin ở Ukraine chứng minh rằng ông sẵn sàng hy sinh quan hệ kinh tế béo bở với châu Âu để đổi lấy vinh quang. Và không một nhà ngoại giao hay học giả Trung Quốc nào, dù có quan hệ tốt đến đâu, có thể tự tin phát biểu thay cho Tập Cận Bình, người, giống như Putin, vẫn có thể chọn đối đầu với phương Tây.
LỜI NÓI CŨNG CÓ TRỌNG LƯỢNG
Một trong những cách quan trọng nhất mà Tập sẽ dùng để báo hiệu ý định của mình đối với phương Tây là hướng đi mà ông quyết định thực hiện với Đài Loan. “Không ai có thể cắt đứt quan hệ thân thuộc giữa [Đài Loan và đại lục], và không ai có thể ngăn cản sự thống nhất của Trung Quốc,” ông tuyên bố trong thông điệp năm mới 2025 của mình. Giống như những người tiền nhiệm, Tập đã không từ bỏ khả năng sử dụng vũ lực để thống nhất Trung Quốc và Đài Loan. Nhưng khác với họ, ông đã để cho cảm giác cấp bách thấm nhuần trong những bình luận của mình, như thể ông đã quyết định xâm lược Đài Loan và chỉ đang chờ cơ hội để thực hiện.
Tuy nhiên, vẫn có khả năng là Tập thực sự chưa quyết định và chỉ đang câu giờ để dự đoán phản ứng của Mỹ. Và những bài học Chiến tranh Lạnh cũng hữu ích trong trường hợp này. Stalin đã tính toán sai lầm nghiêm trọng phản ứng của Washington khi Triều Tiên xâm lược Hàn Quốc vào năm 1950, một phần vì ông kết luận từ thông tin tình báo thu thập được từ điện tín đánh chặn rằng Mỹ sẽ không can thiệp để bảo vệ Hàn Quốc. Ông đã không lường trước được cách mà nhận thức về mối đe dọa và chính sách của Washington đã phát triển để đáp trả các động thái hung hăng của Moscow. Tập cũng có thể kết luận rằng Washington không nghiêm túc về việc bảo vệ Đài Loan, theo đó lựa chọn hành động mà ông cho là phù hợp. Và giống như Stalin, ông có thể mắc sai lầm trong tính toán của mình, với những hậu quả thậm chí còn bi thảm hơn cho thế giới.
Cũng giống như sự leo thang ngẫu nhiên và dần dần của Chiến tranh Lạnh, với những khoảnh khắc căng thẳng đan xen cùng những nỗ lực để sắp xếp lại mọi thứ, quan hệ Mỹ-Trung ngày nay không phải là không thể cứu vãn, ngay cả khi nó đã đi rất xa trên con đường đối đầu. Để tránh biến việc tìm hiểu về Chiến tranh Lạnh thành việc chiến đấu trong một cuộc chiến mới, chính phủ Trung Quốc không nên hành động như thể họ không muốn đối thoại với Mỹ.
Nicholas Burns, Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc dưới thời chính quyền Biden, đã phải đối mặt với sự cản trở ngoại giao và hầu như không thể tiếp cận các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc. Trung Quốc đã phớt lờ những nỗ lực của Lầu Năm Góc nhằm duy trì đối thoại quân sự với quân đội, và dù cựu Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin cuối cùng đã có thể gặp người đồng cấp Trung Quốc Đổng Quân vào tháng 05/2024, các cuộc tiếp xúc vẫn rất rời rạc. Những cản trở này có thể là một cách để thể hiện sự không hài lòng với những gì Trung Quốc cho là thái độ diều hâu của Washington, nhưng dù cố ý hay không, nó cũng gửi đi một thông điệp khác: rằng Bắc Kinh đã kiên quyết tiến hành một cuộc chiến tranh lạnh mới.
Thay vào đó, Bắc Kinh nên báo hiệu cho Washington, công khai hoặc qua các kênh riêng tư, rằng Trung Quốc không có kế hoạch xâm lược Đài Loan trong tương lai gần. Họ nên hạ giọng trong các bài phát biểu công khai về “sự thống nhất” sắp xảy đến, để tạo nền tảng cho việc xây dựng lòng tin vô cùng cần thiết.
Bắc Kinh cũng nên nói rõ rằng họ không tìm kiếm liên minh với Moscow. Quan hệ đối tác “không giới hạn,” vốn gây ra sự báo động lớn ở phương Tây mà chẳng mang lại lợi ích gì cho Trung Quốc, chính là lời nhắc nhở rằng những gì Bắc Kinh nói về quan hệ của họ với Nga có thể tác động trực tiếp đến nhận thức về mối đe dọa ở phương Tây. Việc cụm từ “chống bá quyền” biến mất khỏi các tuyên bố của Trung-Nga sẽ không xóa bỏ quan ngại của người Mỹ về một trục mới nổi, nhưng chí ít nó cũng làm giảm bớt bằng chứng đáng kể cho những quan ngại như vậy.
Quan trọng nhất, các nhà lãnh đạo Trung Quốc nên tham gia trực tiếp hơn vào việc giúp chấm dứt cuộc chiến của Nga ở Ukraine. Là người mua chính các sản phẩm dầu mỏ của Nga và là nhà cung cấp chính các mặt hàng công nghiệp và tiêu dùng cho Nga, Trung Quốc nắm giữ đòn bẩy kinh tế đáng kể trong quan hệ này, và họ có thể triển khai chúng để khuyến khích Putin chấp nhận lệnh ngừng bắn. Một cuộc xung đột bị đóng băng sẽ không đi ngược lại lợi ích của Trung Quốc trong việc tránh leo thang ở Ukraine, nó sẽ giúp ổn định quan hệ với châu Âu và thậm chí có thể tạo ra một điểm giao giữa Bắc Kinh và chính quyền Trump, những người đã ra hiệu về sự quan tâm của mình đối với lệnh ngừng bắn bất kể nó có giải quyết toàn diện cuộc chiến hay không. Xét đến những bình luận của Vương Nghị tại Munich rằng “tất cả các bên tham chiến và các bên liên quan nên, vào thời điểm thích hợp, tham gia vào tiến trình đàm phán hòa bình” và ý định của Trump trong việc tổ chức đàm phán hòa bình với Nga, thì bây giờ chính là lúc Trung Quốc cần ra hiệu về sự quan tâm của mình trong một cuộc đối thoại trực tiếp và thực chất với Mỹ về cuộc chiến ở Ukraine.
RÚT KINH NGHIỆM TỪ LẦN TRƯỚC
Khi mây đen bắt đầu bao phủ quan hệ Mỹ-Xô vào năm 1945, Tổng thống Harry S. Truman đã tự tin dự đoán rằng ông sẽ đạt được mục đích của mình trong 85% thời gian vì, như ông nói, “Liên Xô cần chúng ta hơn chúng ta cần họ.” Nhưng thực tế phức tạp hơn thế. Lo sợ người Mỹ sẽ nghĩ rằng bất kỳ sự nhượng bộ nào của Liên Xô cũng là điểm yếu, Stalin đã chỉ thị cho ngoại trưởng của mình, Vyacheslav Molotov, “thể hiện sự ngoan cố hoàn toàn.” Ngày nay, Mỹ không có độc quyền hạt nhân và phải đối mặt với một đối thủ Trung Quốc mạnh hơn nhiều, nên họ không thể mong muốn đạt được tỷ lệ thành công như dự đoán của Truman. Do đó, ngoại giao tích cực là hy vọng tốt nhất của Washington để giảm nhẹ và thậm chí có thể đảo ngược tình trạng đối đầu với Bắc Kinh.
Đầu tiên, Mỹ nên tăng gấp đôi nỗ lực để ngăn cản Đài Loan tuyên bố độc lập. Đây là một động thái gây mất ổn định cao độ, sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho Đông Á và thế giới. Washington có thể gắn ngoại giao Đài Loan của mình với lời đảm bảo riêng tư từ Trung Quốc rằng họ sẽ không xâm lược hòn đảo này.
Đồng thời, Mỹ cũng nên nói thẳng với Trung Quốc rằng Washington sẽ buộc phải chuẩn bị cho một cuộc xung đột ở Đài Loan trừ phi Bắc Kinh thể hiện qua các tuyên bố công khai và thiện chí tham gia vào các biện pháp xây dựng lòng tin ở Đông Á rằng họ không tìm kiếm một cuộc chiến tranh lạnh khác. Các biện pháp như vậy có thể bao gồm việc đáp lại lời kêu gọi kiểm soát vũ khí của Trump, phát triển các liên lạc cấp quân đội, và kiềm chế các cuộc tập trận quân sự khiêu khích.
Khi còn là cố vấn an ninh quốc gia và ngoại trưởng dưới thời Tổng thống Richard Nixon, Henry Kissinger đã chỉ trích Đảng Dân chủ vì rao giảng nhân quyền cho Liên Xô. Ông đã hiểu đúng rằng chính thái độ này đã khiến Liên Xô khó chịu và khiến ngoại giao trở nên khó khăn hơn. Ông đã giành được những chiến thắng to lớn trước Liên Xô bằng cách đi tiên phong trong việc xích lại gần với Trung Quốc và qua mặt Điện Kremlin ở Trung Đông. Mỹ giờ đây cũng nên áp dụng cách tiếp cận của Kissinger đối với Trung Quốc và kiềm chế việc thuyết giảng cho Bắc Kinh về các giá trị dân chủ, vốn chỉ làm cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảnh giác mà không giúp cải thiện tình hình nhân quyền ở Trung Quốc. Trump dường như có khuynh hướng tự nhiên là tránh chủ đề này, vì ông chưa bao giờ sử dụng ngôn ngữ quốc tế tự do của những người tiền nhiệm.
Trump cũng nên đề nghị Trung Quốc đóng vai trò trực tiếp trong việc đưa Nga vào bàn đàm phán để chấm dứt chiến tranh ở Ukraine. Bắc Kinh đã có một người liên lạc đối với Nga và Ukraine là Đại sứ Lý Huy và đã đưa ra các tuyên bố về nhu cầu cho một thỏa thuận hòa bình. Bằng cách mời Bắc Kinh tham gia đàm phán, Trump có thể kiểm tra thiện chí của Trung Quốc và nếu đạt được thỏa thuận, ông cần đảm bảo rằng Trung Quốc cũng đóng một vai trò trong việc thực hiện lệnh ngừng bắn.
Tháng 02/2025 đánh dấu kỷ niệm 75 năm ngày ký kết hiệp ước liên minh Trung-Xô. Liên minh tưởng chừng bất khả xâm phạm này thực chất đã bị chia rẽ bởi những mâu thuẫn nội bộ và chỉ tồn tại trong khoảng mười năm trước khi sụp đổ sau một loạt cáo buộc lẫn nhau về sự phản bội. Quyết định theo đuổi hiện đại hóa và phát triển thông qua quan hệ đối tác, thay vì đối đầu với phương Tây, đã giúp Trung Quốc tránh được số phận của Liên Xô. Ngày nay, Trung Quốc và Nga một lần nữa lại hợp tác với nhau, nhưng quan hệ của họ không phải là liên minh và còn lâu mới “không có giới hạn.” Trong lúc khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh lạnh mới đang lờ mờ hiện ra, Trung Quốc không chắc chắn liệu họ có thực sự muốn dẫn dắt một “trục phụ thuộc” ngoan cố và không đáng tin cậy vào cuộc đối đầu với Mỹ hay không. Cả hai bên đều có lợi khi tận dụng sự không chắc chắn này để tìm kiếm các thỏa thuận thay thế.
Sergey Radchenko là giáo sư tại Trường Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp của Đại học Johns Hopkins.