Nguồn: Derek Grossman, “How U.S.-Russia-China Ties Would Impact the Indo-Pacific,” Foreign Policy, 06/03/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Trong lúc các đồng minh của Mỹ lo lắng, các quốc gia khác sẽ hoan nghênh một quan hệ tốt đẹp hơn giữa các cường quốc.
Dường như quan hệ giữa Mỹ và các đối thủ cường quốc là Nga và Trung Quốc sắp được cải thiện. Chính quyền Trump đang đàm phán trực tiếp với Điện Kremlin nhằm chấm dứt chiến tranh Nga-Ukraine, và Tổng thống Mỹ Donald Trump có thể gặp Tổng thống Nga Vladimir Putin và hai bên thậm chí có thể thiết lập lại toàn bộ quan hệ song phương.
Tương tự, Trump đã nói rằng ông muốn gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, có thể là tại Mỹ, để nối lại các cuộc đàm phán về các lĩnh vực có nhiều bất đồng – cụ thể là sự mất cân bằng thương mại đáng kể. Trump cũng đã nói trong những tuần gần đây rằng ông có “mối quan hệ tuyệt vời” với Tập và mong muốn “hòa thuận với Trung Quốc.”
Thế giới vẫn đang vật lộn để hiểu và điều chỉnh cho phù hợp với thay đổi địa chính trị tiềm tàng này. Tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, các phản ứng có thể sẽ trái chiều. Các đồng minh và đối tác thân cận của Mỹ nhiều khả năng sẽ bày tỏ quan ngại sâu sắc, nhưng phần lớn các quốc gia khác sẽ thể hiện sự lạc quan thận trọng rằng các đối thủ sở hữu vũ khí hạt nhân đang đàm phán và cố gắng giải quyết những khác biệt của họ một cách hòa bình. Điều này đặc biệt đúng đối với các quốc gia Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương luôn lo lắng về việc bị mắc kẹt giữa các cường quốc.
Tuy nhiên, cùng lúc đó, các quốc gia không liên kết ở phương Nam toàn cầu có thể lo ngại rằng triển vọng cho các chiến lược phòng bị nước đôi của họ – trong đó họ thu được lợi ích từ việc kích động các cường quốc chống lại nhau – sẽ suy giảm đáng kể.
Các đồng minh của Mỹ ở Đông Bắc Á – Nhật Bản và Hàn Quốc – nhiều khả năng sẽ bày tỏ sự nghi ngờ sâu sắc về những gì có vẻ là chiến lược mới của Mỹ. Kể từ khi bắt đầu chiến tranh Nga-Ukraine, Tokyo đã mạnh mẽ ủng hộ lập trường của chính quyền Biden bằng cách ký và thực thi các lệnh trừng phạt do Mỹ dẫn đầu đối với Moscow.
Nhật Bản cũng lo ngại về quan hệ đối tác chiến lược “không giới hạn” giữa Nga và Trung Quốc, vốn có thể trở thành lực lượng áp đảo trong các cuộc xung đột Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong tương lai, dù là ở Quần đảo Kuril, Quần đảo Senkaku (được gọi là Điếu Ngư ở Trung Quốc), Đài Loan, Hàn Quốc, hay Biển Đông. Ví dụ, vào tháng 11, Tokyo đã rất lo lắng khi Trung Quốc và Nga triển khai máy bay ném bom chiến lược trong một cuộc tuần tra chung trên không trên Biển Nhật Bản.
Tuy nhiên, Nhật Bản chủ yếu lo ngại rằng quan hệ Mỹ-Trung được cải thiện sẽ khiến Bắc Kinh bạo dạn hơn trong việc chiếm đóng các đảo đang tranh chấp, chẳng hạn như Senkaku, hoặc tấn công Đài Loan, theo đó có thể buộc người Nhật phải can thiệp để đảm bảo an ninh cho Quần đảo Ryukyu (Lưu Cầu) – thuộc lãnh thổ của nước này, vốn có một hòn đảo cực tây chỉ nằm cách bờ biển Đài Loan khoảng 110km.
Hàn Quốc gần như chỉ tập trung vào mối đe dọa từ Triều Tiên và có thể sẽ phải đối mặt với những hậu quả chiến lược to lớn nếu Washington cải thiện quan hệ với Bắc Kinh, Moscow, hoặc cả hai. Nếu Washington ưu tiên phối hợp với hai nước này thay vì Seoul, Hàn Quốc có thể mất đi đòn bẩy đáng kể khi đối phó với chế độ Triều Tiên.
Mỹ cũng có thể ngó lơ việc Triều Tiên hỗ trợ quân sự cho Nga ở Ukraine, cho phép Bình Nhưỡng tiếp tục củng cố sức mạnh cho quân đội của mình trước một cuộc chiến tranh tiềm tàng trên Bán đảo Triều Tiên. Ngoài ra, cả Bắc Kinh lẫn Moscow đều không cảm thấy sức ép phải theo đuổi phi hạt nhân hóa ở Triều Tiên, và chế độ này thậm chí có thể được nới lỏng các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc dưới sự đồng ý của Mỹ.
Quốc gia châu Á phải chịu tổn thất nhiều nhất có lẽ là Đài Loan. Là đối tác chiến lược lâu năm của Mỹ, Đài Bắc luôn hy vọng – và có lẽ mong đợi – rằng Washington sẽ can thiệp quân sự nếu Bắc Kinh tấn công hòn đảo.
Thật vậy, trong bốn dịp khác nhau, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã công khai tuyên bố rằng quân đội Mỹ sẽ hỗ trợ Đài Bắc trong một trường hợp như vậy. Hành động này trên thực tế đã đưa Washington thoát khỏi vị thế “mơ hồ chiến lược” để chuyển sang vị thế rõ ràng chiến lược.
Nhưng nếu quan hệ Mỹ-Trung được cải thiện, thì Đài Loan sẽ tự hỏi liệu các cam kết của Biden có còn hiệu lực hay không. Và tất nhiên, bất kỳ thỏa thuận nào giữa Mỹ với Điện Kremlin về Ukraine mà trong đó Nga vẫn giữ được lãnh thổ đã xâm lược cũng sẽ gây ra hoảng loạn ở Đài Loan về cam kết của Washington đối với an ninh và chủ quyền liên tục của hòn đảo.
Ở Đông Nam Á, phản ứng đối với bất kỳ sự hòa hoãn nào giữa Mỹ với Trung Quốc và Nga có lẽ sẽ là cực kỳ tích cực, vì hầu như tất cả các nước ở khu vực này đều muốn tránh bị vướng vào cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc và kéo theo đó là chiến tranh trong khu vực của họ. Các đối tác chiến lược chủ chốt của Mỹ – Indonesia, Singapore, và Việt Nam – đã duy trì chính sách đối ngoại không liên kết một cách nghiêm ngặt, tránh lựa chọn cường quốc này thay cho cường quốc khác. Ngược lại, chiến lược của họ là phòng bị nước đôi với các cường quốc để tự bảo vệ mình.
Ví dụ, Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới đã lần lượt đón tiếp Biden, Tập, và Putin đến dự một loạt các hội nghị thượng đỉnh kể từ khi Nga xâm lược Ukraine. Các quốc gia khác trong khu vực, chẳng hạn như Brunei và Malaysia, cũng sẽ hoan nghênh sự thay đổi này. Campuchia và Lào từ lâu đã nằm trong quỹ đạo chiến lược của Trung Quốc, và có thể mong đợi những lợi ích lớn hơn nếu Washington và Bắc Kinh hòa thuận. Chính quyền quân sự ở Myanmar, những người đang phải chiến đấu trong cuộc nội chiến, đã lựa chọn duy trì quan hệ an ninh chặt chẽ với cả Trung Quốc và Nga, vì vậy một sự thay đổi chiến lược của Mỹ có thể sẽ được họ chấp nhận. Ngay cả Thái Lan, một đồng minh hiệp ước của Mỹ, cũng có thể ủng hộ quan hệ tốt đẹp hơn giữa Mỹ và Trung Quốc, vì Bangkok không chia sẻ cảm giác cấp bách của Washington trong việc giải quyết mối đe dọa từ Trung Quốc.
Trong số tất cả các nước Đông Nam Á, chỉ có Philippines – một đồng minh an ninh khác của Mỹ – là chắc chắn sẽ chịu tổn thất từ sự thay đổi lớn trong chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc và Nga. Suốt nhiều thập kỷ, Manila đã buộc phải đối đầu khi Bắc Kinh xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của họ ở Biển Đông, đáng chú ý nhất là ở Quần đảo Trường Sa và Bãi Scarborough.
Thái độ coi thường trắng trợn của Bắc Kinh đối với luật pháp và chuẩn mực quốc tế đã dẫn đến nhiều vụ việc nguy hiểm trên biển, liên quan đến chiến thuật vùng xám của các tàu hải cảnh Trung Quốc và đội tàu đánh cá được quân sự hóa. Điều này đã được minh chứng rõ ràng mỗi khi Manila cố gắng tiếp tế cho quân đội của mình trên tàu đổ bộ Sierra Madre thời Thế chiến II tại Bãi Cỏ Mây. Để đáp trả, Mỹ và Philippines đã thực hiện nhiều bước để củng cố liên minh nhằm tăng cường khả năng răn đe – chẳng hạn bằng cách mở rộng số lượng căn cứ tại Philippines mà quân đội Mỹ có thể triển khai từ năm lên chín căn cứ. Nếu quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh trở nên khăng khít hơn, thì Manila rõ ràng sẽ lo lắng về hậu quả đối với liên minh của họ và Mỹ.
Trong khi đó, ở Nam Á, một đối tác chiến lược quan trọng khác của Mỹ – Ấn Độ – chắc chắn sẽ ủng hộ quan hệ tốt đẹp giữa Mỹ và Nga, dù họ có thể lo lắng về quan hệ gần gũi hơn giữa Mỹ và Trung Quốc. Một trong số ít những bất đồng của quan hệ Mỹ-Ấn, đặc biệt là kể từ khi Điện Kremlin xâm lược Ukraine, là sự bền bỉ của quan hệ đối tác chiến lược Ấn-Nga, bao gồm các thỏa thuận an ninh mới được Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Putin ký tại Moscow vào năm ngoái. Một quan hệ tốt hơn giữa Mỹ và Nga sẽ khiến nguồn bất đồng đó biến mất.
Nhưng đối với Trung Quốc, Ấn Độ tỏ ra cảnh giác hơn nhiều. Hồi tháng 10, New Delhi và Bắc Kinh đã giải quyết căng thẳng biên giới trên bộ trong hòa bình và bắt đầu quá trình hạ nhiệt quan hệ. Tuy nhiên, việc Modi nhấn mạnh vào hợp tác quốc phòng trong chuyến thăm Nhà Trắng hồi giữa tháng 2 cho thấy Ấn Độ xem Mỹ là cường quốc chính giúp họ cân bằng với Trung Quốc. Do đó, quan hệ Mỹ-Trung gần gũi hơn sẽ được New Delhi xem xét thận trọng.
Tất cả các quốc gia Nam Á khác – Afghanistan, Bangladesh, Bhutan, Maldives, Nepal, Pakistan, và Sri Lanka – rất có thể sẽ hoan nghênh nhiệt liệt việc cải thiện quan hệ giữa các cường quốc. Cũng như Đông Nam Á, các nước này chỉ đơn giản là đang tìm kiếm một môi trường hòa bình và ổn định hơn cho phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, Bangladesh và Pakistan có thể sẽ vui hơn những quốc gia còn lại. Bangladesh, đất nước mà quan hệ với Ấn Độ đã trở nên căng thẳng kể từ cuộc chuyển giao chính trị ở Dhaka vào tháng 8 năm ngoái, trong những tháng gần đây đang dần nghiêng về Trung Quốc để được hỗ trợ – và ở một mức độ thấp hơn là Nga. Suốt hàng chục năm, Pakistan đã duy trì “tình anh em sắt đá” với Trung Quốc, và trong những năm gần đây, họ cũng bắt đầu tìm cách tận dụng sự hỗ trợ của Nga, đặc biệt là để xây dựng đường ống dẫn khí đốt từ Karachi đến Lahore, cũng như tham gia vào các cuộc tập trận quân sự chung và hợp tác chống khủng bố.
Tại Châu Đại Dương, Quần đảo Solomon đang đứng trước khả năng mất đòn bẩy mặc cả nếu các cường quốc đột nhiên hòa thuận hơn. Trước khi ký thỏa thuận an ninh với Trung Quốc vào năm 2022, quần đảo này đã trở thành tâm điểm chú ý khi Mỹ và các nước bạn vội vã ngăn cản họ tiến hành thỏa thuận. Nhưng cuối cùng, Washington đã không thể đưa ra bất kỳ điều gì tốt hơn Bắc Kinh, vì vậy Quần đảo Solomon đã tiến hành thỏa thuận.
Đây chính xác là loại cơ hội mà các quốc gia vừa và nhỏ trên khắp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương sẽ bỏ lỡ nếu có sự thay đổi trong chính sách của Mỹ trong tương lai. Tuy nhiên, nhìn chung ở Châu Đại Dương, quan hệ được cải thiện của Mỹ với Trung Quốc và Nga nói chung sẽ được hoan nghênh, vì các quốc đảo nhỏ ở Thái Bình Dương ngày càng cảnh giác với cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt của các cường quốc.
Ngoại lệ tất nhiên là Australia và New Zealand – một đồng minh an ninh và một đối tác thân cận của Mỹ. Trong những năm gần đây, Canberra đã xác định Bắc Kinh là mối đe dọa địa chiến lược hàng đầu của mình và củng cố liên minh với Washington, không chỉ bằng cách tăng cường sự tham gia thông qua Đối thoại an ninh bốn bên và bằng cách ký kết hiệp ước an ninh Australia-Anh-Mỹ.
Những lo lắng của New Zealand cũng đang gia tăng. Ví dụ, hồi tháng trước, Quần đảo Cook – một quốc gia có chủ quyền được cho là phải tham vấn với Wellington về các vấn đề an ninh, theo một thỏa thuận liên kết tự do lâu đời – đã quyết định không tham vấn trước khi ký một thỏa thuận mới với Trung Quốc nhằm tăng cường sự hiện diện trên biển của Trung Quốc trên các đảo thuộc Quần đảo Cook. Các tàu chiến Trung Quốc gần đây cũng tiến hành một cuộc tập trận bắn đạn thật ở Biển Tasman giữa Australia và New Zealand, làm gia tăng nỗi lo rằng Bắc Kinh xem sự hiện diện ở Châu Đại Dương là một điều cần thiết về mặt chiến lược.
Mông Cổ và Triều Tiên nhiều khả năng sẽ phản đối và làm suy yếu sự hòa hoãn giữa Mỹ và Nga hoặc Mỹ và Trung Quốc, nhưng vì những lý do trái ngược nhau. Đối với Mông Cổ, quốc gia bị kẹp giữa Nga và Trung Quốc về mặt địa lý và liên tục phải phòng bị nước đôi với cả hai để đảm bảo sự tồn tại của mình, Mỹ luôn là một “người hàng xóm thứ ba” hữu ích để cân bằng cả hai. Nếu không có Washington, Ulaanbaatar sẽ mất đi đòn bẩy quan trọng. Triều Tiên cũng gặp vấn đề tương tự, nhưng ở chiều ngược lại: Họ cần Trung Quốc và Nga để chống lại Mỹ, nhưng quan hệ thân thiện hơn giữa các cường quốc có thể gây nguy hiểm nghiêm trọng cho chiến lược này.
Vẫn còn quá sớm để xác định cách chính quyền Trump tiếp cận những đối thủ chính của Mỹ. Thật vậy, có thể sẽ chẳng có sự thay đổi nào cả. Nhưng giả sử có thay đổi, thì phần lớn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương – ngoại trừ các đồng minh và đối tác thân cận của Mỹ – có thể lạc quan rằng khu vực của họ sẽ dần trở nên ổn định hơn.
Derek Grossman là nhà phân tích quốc phòng cấp cao của Rand Corp., giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Nam California, và là cựu cố vấn tình báo của Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ về các vấn đề an ninh Châu Á và Thái Bình Dương.