Nguồn: Isaac B. Kardon và Alexander Gabuev, “Trump’s Greenland Obsession Will Not Secure America”, Foreign Policy, 26/05/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
Một trong những mối bận tâm thường xuyên nhất của Tổng thống Mỹ Donald Trump trong 100 ngày đầu nhậm chức là mong muốn “có được Greenland”. Khi biện minh cho ý định cấp tiến này, tổng thống và các phụ tá đã viện dẫn sự cần thiết phải “đối trọng” với sự hợp tác ngày càng tăng ở Bắc Cực giữa các đối thủ quan trọng nhất của Mỹ — Nga và Trung Quốc.
“Các tàu của Nga có mặt khắp nơi. Các tàu của Trung Quốc có mặt khắp nơi. Họ đang giong thuyền khắp Canada, họ đang giong thuyền ngay cạnh Greenland. Chúng ta sẽ không để điều đó xảy ra”, ông Trump nói trong một cuộc phỏng vấn. Ông nói đúng rằng sự hợp tác mở rộng giữa Bắc Kinh và Moscow ở vùng Cực Bắc thách thức an ninh quốc gia của Mỹ. Nhưng việc kiểm soát mối đe dọa mới nổi này đối với Tây Bán cầu đòi hỏi Washington phải hợp tác với các đồng minh Bắc Cực của mình, chứ không phải xa lánh hoặc sáp nhập họ. Các nhà hoạch định chính sách và chiến lược nên tập trung sự chú ý và nguồn lực của Mỹ vào vị trí của Mỹ ở Alaska, đặc biệt là gần eo biển Bering, vốn là điểm nút để Trung Quốc tiếp cận Bắc Băng Dương.
Sự hợp tác giữa Tổng thống Nga Vladimir Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ở Bắc Cực đang tăng cường khi băng tan tạo ra những cơ hội mới để khai thác và vận chuyển các tài nguyên thiên nhiên phong phú của khu vực và mang lại khả năng tiếp cận dễ dàng hơn đến các quỹ đạo cực không gian để phóng vệ tinh. Khi mở rộng mối quan hệ đối tác “không giới hạn” ra các vĩ độ cao, hai cường quốc Á-Âu này đã tận dụng được sự chia rẽ trong liên minh NATO – vốn là một thành trì vững chắc trong khu vực từ thời Chiến tranh Lạnh. Các mối quan hệ này phải được tăng cường để ngăn Nga tiếp tục củng cố vị trí thống trị của mình dọc theo phần lớn tuyến đường thủy chiến lược ở Bắc Cực và để hạn chế khả năng ngày càng mở rộng của Trung Quốc trên khắp khu vực.
Nhưng sự hợp tác giữa Trung Quốc và Nga ở Bắc Cực không phải là điều tất yếu hay vĩnh viễn. Thật vậy, cho đến khi Nga tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine, nước này đã tìm cách hạn chế Trung Quốc, một “quốc gia cận Bắc Cực” tự xưng, mở rộng khả năng và quy mô công nghiệp và quân sự vượt trội của mình ở Bắc Cực. Bản năng bảo vệ của Điện Kremlin được ủng hộ rộng rãi bởi Mỹ và các quốc gia khác giáp Bắc Băng Dương. Điểm chung hiếm hoi này xuất phát từ sự cảnh giác lẫn nhau đối với Trung Quốc, cường quốc đang lên duy nhất và là người chơi mới duy nhất có tham vọng lớn trong khu vực. Trong một khoảng thời gian, Nga thậm chí còn hợp tác mang tính xây dựng trong Hội đồng Bắc Cực để giúp kiềm chế Trung Quốc—cho đến khi Moscow bị trục xuất khỏi cơ quan đa phương này vì hành động gây hấn chống lại Ukraine.
Chiến lược cân bằng của Nga giờ đã không còn. Dưới sự chỉ đạo của Putin, nền kinh tế Nga đang gặp khó khăn ngày càng phụ thuộc vào sức mạnh công nghiệp, công nghệ và tài chính của Trung Quốc. Các công ty Trung Quốc đã giải cứu các dự án năng lượng của Nga ở Bắc Cực bị phương Tây bỏ rơi, đồng thời trở thành nhà nhập khẩu dầu thô lớn nhất của Nga – lượng dầu này được vận chuyển ngày càng nhiều về phía đông trên các tàu phá băng mới của Trung Quốc, đi qua vùng biển Nga để về nước, thay vì vận chuyển về phía tây sang châu Âu như trước. Bắc Kinh đang tận dụng sự cô lập của Moscow để có thêm cơ hội khai thác bờ biển Bắc Cực rộng lớn của Nga, hấp thụ các nguồn năng lượng và khoáng sản của nước này, phát triển khả năng khoa học và công nghệ vùng cực của nước này, và mở rộng phạm vi quân sự của mình.
Moscow có thể vẫn phẫn nộ với mục tiêu của người láng giềng khổng lồ muốn xâm phạm sân sau chiến lược và cướp tài nguyên Bắc Cực của mình, nhưng để nói không với Bắc Kinh sẽ ngày càng khó khăn hơn. Mặc dù sự hiện diện kinh tế và chiến lược của Trung Quốc ở Bắc Cực vẫn còn non trẻ, nó sẽ tiếp tục phát triển. Trong những tháng gần đây, Trung Quốc và Nga đã tăng cường các chiến dịch kết hợp, triển khai máy bay ném bom chiến lược ngoài khơi Alaska, tập trận hải quân và lực lượng bảo vệ bờ biển trong và xung quanh biển Bering, và tiến hành nghiên cứu hàng hải trên khắp Bắc Cực phục vụ cả mục đích quân sự và khoa học. Trong khi đó, khả năng và nhận thức của Mỹ ở Bắc Cực đã suy yếu đến mức báo động.
Việc cân bằng sự mở rộng quyền lực của Trung Quốc và Nga ở khu vực Bắc Cực là một nhiệm vụ khó khăn đối với quân đội Mỹ đang quá dàn trải. Sau Chiến tranh Lạnh, Washington đã giảm sự hiện diện của mình ở Bắc Cực bằng cách đóng cửa các căn cứ, hạn chế các chiến dịch quân sự và bỏ bê cơ sở hạ tầng cũ kỹ. Lực lượng Tuần duyên Mỹ hiện đang chật vật duy trì chỉ một tàu phá băng hạng nặng để thực hiện các chiến dịch trên mặt nước ở vùng biển Bắc Cực. Trong khi đó, Trung Quốc có ba chiếc và đang tiếp tục tăng, còn Nga sở hữu con số đáng kinh ngạc là 40 chiếc—bao gồm cả các tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân duy nhất trên thế giới thuộc lớp này.
Sau một thời gian dài gián đoạn hậu Chiến tranh Lạnh, Mỹ bắt đầu khôi phục hệ thống radar cảnh báo sớm và hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo bị áp đảo của mình, và dần dần tăng cường hoạt động trên không và trên biển. Năm 2021, Mỹ và Canada đã đồng ý hiện đại hóa Bộ Tư lệnh Phòng không Bắc Mỹ (NORAD) chung của họ để phát hiện và ngăn chặn tốt hơn mối đe dọa ngày càng tăng từ tên lửa tiên tiến của Trung Quốc và Nga. Chính quyền Trump dường như cam kết tiếp tục theo hướng này, nhưng sự ám ảnh của Trump với Greenland làm suy yếu và định hướng sai những nỗ lực này.
Cách tiếp cận trực tiếp duy nhất của Trung Quốc đến Bắc Cực là qua eo biển Bering hẹp giữa Alaska và Viễn Đông Nga, cách Greenland một lục địa. Nga vẫn đang giữ quân đội Trung Quốc ở khoảng cách an toàn ở phía châu Âu của Bắc Cực, không cấp phép và cung cấp cơ sở hạ tầng cần thiết cho tàu chiến, tàu ngầm và máy bay của Trung Quốc tiếp cận khu vực. Nhưng nếu một ngày nào đó Moscow khuất phục trước áp lực liên tục của Bắc Kinh để triển khai xa hơn về phía tây, Mỹ sẽ cần các đồng minh Bắc Cực của mình tiếp tục giữ vững tuyến phòng thủ và chia sẻ gánh nặng.
Các quốc gia Bắc Cực, tất cả đều là thành viên NATO ngoại trừ Nga, đã bị ràng buộc bởi hiệp ước và rõ ràng sẵn sàng cho phép quân đội Mỹ tiếp cận, đặt căn cứ và bay qua không phận. Trong Chiến tranh Lạnh, Greenland từng là nơi đặt tới 17 cơ sở quân sự của Mỹ với 12.000 binh sĩ. Ngay cả khi một máy bay ném bom B-52 của Không quân Mỹ bị rơi gần một trong những căn cứ đó vào năm 1968, làm vỡ tải trọng hạt nhân của nó và phát tán phóng xạ vào vùng biển Greenland, Đan Mạch vẫn lặng lẽ cho phép Mỹ triển khai vũ khí hạt nhân từ lãnh thổ đảo chiến lược của mình để đối phó với mối đe dọa từ Liên Xô.
Những đồng minh kiên định này tiếp tục bổ sung và tăng cường vị thế của Mỹ trong khu vực. Các quốc gia Bắc Âu đã xuất sắc trong việc điều hướng vùng cực, các chiến dịch đặc biệt và giám sát, và nhiều quốc gia đóng các tàu hải quân và thương mại tinh xảo, bao gồm tàu ngầm, tàu phá băng và tàu khảo sát. Khả năng phá băng của Phần Lan có tầm quan trọng đặc biệt, do những thách thức dai dẳng của Mỹ trong việc đóng và triển khai các tàu phức tạp này, vốn rất cần thiết để hoạt động trong môi trường Bắc Cực khắc nghiệt.
Trong suốt Chiến tranh Lạnh, NATO đã thành công trong việc phong tỏa các lực lượng Liên Xô bằng cách bảo vệ vùng đệm Greenland-Iceland-Anh (GIUK). Trong nhiệm kỳ đầu tiên của Trump, Đan Mạch đã chấp thuận yêu cầu của Mỹ về việc từ chối hoặc thu hồi các hồ sơ dự thầu của Trung Quốc để thiết lập cơ sở hạ tầng quan trọng và hoạt động khai thác ở Greenland. Bất chấp lập trường hung hăng mới của Washington, Copenhagen và Ottawa vẫn ra hiệu cho thấy sự quan tâm của họ trong việc tiếp tục mối quan hệ đối tác lâu dài thành công với Washington để giải quyết các mối đe dọa chung đối với chủ quyền và an ninh của họ.
Nếu Trump thực sự muốn bảo vệ Tây Bán cầu khỏi Trung Quốc và Nga, việc ông tập trung vào mua lại Greenland là không đúng đắn về mặt chiến lược. Dù NATO có ra sao đi nữa, cho đến nay nó đã đặc biệt hiệu quả trong việc bảo vệ các cửa ngõ phía bắc của Mỹ khỏi các bước tiến của Liên Xô và nay là Trung Quốc và Nga. Lợi thế của Mỹ, như mọi khi, không chỉ nằm ở khoảng cách địa lý với các đối thủ, mà còn ở mạng lưới đồng minh vô song này. Bất kỳ chiến lược cạnh tranh nào cũng sẽ cần tận dụng hệ thống liên minh bằng cách củng cố nó. Đe dọa các đồng minh và để Bắc Kinh và Moscow lợi dụng sự chia rẽ của phương Tây sẽ chỉ làm suy yếu an ninh của Mỹ.
Isaac B. Kardon, nghiên cứu viên cấp cao về các vấn đề Trung Quốc tại Quỹ Hòa bình Quốc tế Carnegie. Alexander Gabuev là nghiên cứu viên cấp cao tại Trung tâm Carnegie Moscow.