Nguồn: Tra Văn, 查雯:美国“仁慈霸权”终结,东南亚国家会倒向中国吗?, Guancha, 26/05/2025.
Biên dịch: Lê Thị Thanh Loan
Kể từ khi nhậm chức Tổng thống Mỹ, Trump đã tập trung vào và phần nào hoàn thành ba nhiệm vụ trong chính sách đối ngoại:
Đầu tiên, tháo gỡ các trách nhiệm và nghĩa vụ mà Mỹ đã đảm nhận đối với Ukraine, cải thiện quan hệ Mỹ-Nga và cuối cùng là đảm bảo rằng Mỹ rút khỏi cuộc khủng hoảng Ukraine, cũng như đảm bảo các lợi ích kinh tế của nước này trong quá trình tái thiết Ukraine sau chiến tranh. Thành tựu tiêu biểu là việc ký kết Thỏa thuận Quỹ đầu tư tái thiết Mỹ – Ukraine.
Thứ hai, việc tái định hình chính sách thuế quan của Mỹ được xem là biện pháp bảo hộ thương mại quyết liệt nhất kể từ những năm 1930. Tác động của nó đối với nền kinh tế Mỹ vẫn đang được theo dõi, nhưng không thể phủ nhận rằng “thuế đối ứng” đã trở thành con bài mặc cả quan trọng nhất của Trump trong việc xử lý quan hệ đối ngoại của Mỹ.
Thứ ba, chính sách Trung Đông của Mỹ đã được tái định hình. Các động thái như chuyến thăm Trung Đông của Trump, việc nối lại các cuộc đàm phán cấp cao giữa Mỹ và Iran, việc ký kết thỏa thuận ngừng bắn với lực lượng vũ trang Houthi và việc dỡ bỏ các lệnh trừng phạt quân sự đối với Syria đều cho thấy, chính sách Trung Đông của chính quyền Trump ưu tiên lợi ích kinh tế, giảm thiểu can thiệp quân sự và thu hẹp chiến lược.
Mặc dù khu vực châu Á-Thái Bình Dương cho đến nay vẫn chưa trở thành trọng tâm của Trump, nhưng điều này có lẽ chỉ là sự yên bình trước cơn bão. Trong ba năm tới, cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt là xung quanh các nước Đông Nam Á, sẽ đạt đến mức độ gay gắt chưa từng có, đồng thời cũng sẽ gây tác động sâu sắc đến chiến lược đối ngoại của các nước trong khu vực và xu thế của trật tự khu vực. Trong bối cảnh này, có hai điểm cần phải làm rõ:
Trước hết, không thể khái quát hóa chiến lược đối ngoại của Trump thành “chủ nghĩa biệt lập”.
Trên thực tế, việc chính quyền Trump rút quân khỏi Ukraine và Trung Đông có mục đích chính là để tập trung các nguồn lực chiến lược của Mỹ vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Khác với chính quyền Biden vốn khuyến khích các quốc gia thành viên NATO tham gia vào các vấn đề Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, chính quyền Trump nhấn mạnh nhiều hơn vào sự phân công vai trò giữa Mỹ và châu Âu. Các quan chức cấp cao có liên quan đã nhiều lần nhấn mạnh mong muốn các nước châu Âu sẽ đảm nhận nhiều trách nhiệm an ninh hơn trong khu vực của họ để Mỹ có thể tập trung vào việc đối phó với những thách thức từ phía Trung Quốc ở châu Á.
Trong tương lai, chính quyền Trump sẽ tiếp tục thúc đẩy các đồng minh tăng chi tiêu quốc phòng: chi tiêu quốc phòng của các quốc gia thành viên NATO nên được tăng lên 5% GDP, còn của Nhật Bản nên được tăng lên 3% GDP. Mục tiêu vẫn là sử dụng nguồn lực của các đồng minh để thực hiện mục đích riêng của Mỹ và củng cố vị thế đặc biệt như là bá chủ toàn cầu duy nhất của nước này thông qua sự phân công vai trò theo khu vực giữa các đồng minh.
Thứ hai, chính sách “thuế đối ứng” của Trump đã đặt nền móng cho việc “gây sức ép cực độ” lên các nước Đông Nam Á.
“Việc hoãn áp thuế trong 90 ngày” đã tạo ra tình trạng bất ổn kéo dài. Các nước Đông Nam Á từng được hưởng lợi từ vòng đầu tiên của cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung và chiến lược “Trung Quốc+1” của các doanh nghiệp đa quốc gia, nhưng mức thuế quan không chắc chắn hiện nay đã khiến đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong tháng 4 đã giảm 30% so với tháng trước và giảm 8% so với cùng kỳ năm trước.
Nếu Trump vẫn kiên định với mục tiêu cuối cùng là đưa hoạt động sản xuất trở lại Mỹ thông qua chính sách thuế quan, các nước Đông Nam Á cuối cùng sẽ không được hưởng mức thuế quan tốt hơn so với Trung Quốc, theo đó sẽ phải chịu đòn kép từ sự sụt giảm trong cả xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Còn nếu Trump chấp nhận phương án thứ yếu và coi việc giảm thâm hụt thương mại là mục tiêu chính, các nước Đông Nam Á sẽ không chỉ buộc phải mở rộng nhập khẩu từ Mỹ mà còn phải thực hiện nghiêm ngặt hơn các quy tắc xuất xứ.
Trong giai đoạn cuối nhiệm kỳ của chính quyền Biden, đã có lệnh cấm hoàn toàn việc phần mềm và phần cứng ô tô thông minh do Trung Quốc sản xuất xâm nhập vào thị trường Mỹ. Trong tương lai, Trump sẽ thắt chặt các hạn chế đối với công nghệ Trung Quốc, điều này sẽ làm gián đoạn chuỗi cung ứng và quan hệ thương mại giữa Trung Quốc với các nước Đông Nam Á. Các nước Đông Nam Á sẽ không chỉ phải đối mặt với áp lực “chọn phe” trong các vấn đề an ninh, mà còn phải chịu áp lực “chọn phe” với mức độ chưa từng có trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại và công nghệ.
Sự kết thúc của “bá quyền nhân từ”
Trong một thời gian dài, các nước Đông Nam Á đã coi Mỹ là một “bá quyền nhân từ”, cho rằng Mỹ không có tham vọng bành trướng lãnh thổ, nhưng có đủ sức mạnh quân sự và kinh tế để duy trì trật tự khu vực, đồng thời cung cấp viện trợ kinh tế và khả năng tiếp cận thị trường cho các nước này. Một số học giả thậm chí còn chỉ ra rằng, với tư cách là một “bá quyền tự do”, Mỹ có thể tạo ra một trật tự mở và tái cấu trúc các điều khoản cơ bản của trật tự bá quyền thông qua tham vấn với các nước trong khu vực, qua đó đảm bảo sự ổn định của trật tự bá quyền.
Tuy nhiên, một loạt chính sách mà Trump đưa ra kể từ nhiệm kỳ thứ hai đã đặt ra thách thức trực tiếp đối với các giả định cơ bản của “bá quyền nhân từ”. Kế hoạch thâu tóm Greenland phản ánh tham vọng mở rộng lãnh thổ của Trump. Việc đình chỉ các chương trình viện trợ nước ngoài trong 90 ngày cũng gây tác động lớn đến các nước Đông Nam Á. Một số dự án rà phá bom mìn ở Việt Nam đã buộc phải dừng lại, dù việc xử lý bom mìn sau chiến tranh từng là một trong những ưu tiên hợp tác giữa Mỹ và Việt Nam. Sau trận động đất mạnh 7,7 độ richter ở Myanmar vào ngày 8/3, chính quyền Trump đã không thể cung cấp hỗ trợ kịp thời do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đã cắt giảm nhân sự quy mô lớn. Trước khi đắc cử, Trump cũng tuyên bố sẽ bãi bỏ “Khung kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” của chính quyền Biden ngay ngày đầu tiên tại Nhà Trắng.
Trump đã chứng minh rõ ràng với các nước Đông Nam Á rằng, Mỹ đã không còn là “bá quyền đàm phán” nữa. Sự ép buộc đơn phương sẽ thay thế tham vấn thể chế và trở thành phương tiện chính của Mỹ trong việc tái định hình trật tự khu vực. Như lời của Bộ trưởng cấp cao Singapore Lý Hiển Long: “Mỹ đã không còn sẵn sàng bảo lãnh cho trật tự toàn cầu, điều này khiến môi trường quốc tế trở nên hỗn loạn và khó lường hơn”.
“Hiệu ứng Trump” sẽ tiếp tục phân hóa các nước Đông Nam Á
Vấn đề tiếp theo là, các nước Đông Nam Á sẽ đưa ra lựa chọn nào trong chiến lược đối ngoại của mình?
Trong những năm gần đây, “phòng bị nước đôi” (hedging) đã trở thành một khái niệm phổ biến trong nghiên cứu quan hệ quốc tế và được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu chiến lược đối ngoại của các nước Đông Nam Á. Các nước Đông Nam Á áp dụng chiến lược “đặt cược hai bên” với Trung Quốc và Mỹ, và Đông Nam Á cũng hình thành nên cái mà chúng ta thường gọi là cấu trúc nhị nguyên “dựa vào Trung Quốc về kinh tế và dựa vào Mỹ về an ninh”.
Tuy nhiên, có một sự đồng thuận trong giới học thuật rằng, chiến lược phòng bị nước đôi chỉ khả thi khi không có sự cạnh tranh toàn diện giữa các cường quốc. Ngược lại, trong một hệ thống đối đầu gay gắt, không gian chiến lược của các nước Đông Nam Á sẽ bị thu hẹp và chiến lược này sẽ trở nên khó duy trì. Ở cấp độ thực tế, chiến lược phòng bị nước đôi của các nước Đông Nam Á đã cho thấy xu thế phân hóa và xu thế này sẽ trở nên rõ ràng hơn trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump. Có hai lý do chính:
Ở cấp độ hệ thống, có sự khác biệt rõ ràng về tác động của “cú sốc Trump” mà các nước Đông Nam Á phải đối mặt. “Thuế đối ứng” là một sự phản ánh trực quan, và có thể chia thành ba cấp bậc: bậc một là Campuchia (49%), Việt Nam (46%), Lào (48%) và Myanmar (44%); bậc hai là Thái Lan (36%), Indonesia (32%), Malaysia (24%) và Brunei (24%); bậc ba là Philippines (17%) và Singapore (10%). Một khi chính sách này được triển khai, Philippines và Singapore sẽ trở thành bên hưởng lợi từ mức thuế quan chung, điều này cũng sẽ tạo ra sự phân hóa trong nội bộ ASEAN và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hành động tập thể của ASEAN.
Ở cấp độ chính trị quốc nội, các quốc gia phòng bị nước đôi có khả năng chịu đựng áp lực hệ thống không giống nhau. Dựa trên kinh nghiệm trong quá khứ, các quốc gia mà người ra quyết định có vị thế lãnh đạo ổn định có nhiều khả năng tránh được xu hướng chính trị hóa chiến lược đối ngoại hơn và do đó có thể duy trì chiến lược phòng bị nước đôi. Ví dụ, Singapore đã duy trì chính sách phòng bị nước đôi cường độ cao, đồng thời thực thi hợp tác kinh tế, an ninh cấp cao với cả Trung Quốc và Mỹ. Trong khi đó, do tác động của chính trị nội bộ, một vài nước Đông Nam Á khác đã chuyển từ chiến lược phòng bị nước đôi thành cân bằng hay phụ thuộc.
Không chỉ tác động đến chiến lược phòng bị nước đôi, “cú sốc Trump” cũng sẽ tạo ra những “tiếng vang” khác nhau trên chính trường quốc nội của các nước Đông Nam Á. Trong cuộc tổng tuyển cử ở Singapore năm nay, Đảng Hành động Nhân dân (PAP), dưới sự lãnh đạo của các nhà lãnh đạo thế hệ thứ tư, đã giành được 65,57% số phiếu bầu, thậm chí vượt qua mức 61,24% trong cuộc tổng tuyển cử năm 2020. Trong bối cảnh địa chính trị phức tạp, PAP đã hoàn thành tốt đẹp quá trình chuyển giao giữa cũ và mới, tạo nên hiện tượng “môi trường bên ngoài càng hỗn loạn, PAP càng bền vững”.
Trong khi đó, các cuộc bầu cử ở Canada và Úc cũng chịu ảnh hưởng của “hiệu ứng Trump”, nhưng cơ chế tác động lại không giống với ở Singapore – tâm lý chống Trump đã giúp Đảng Tự do Canada và Đảng Lao động Úc đảo ngược tình thế. Liệu những hiệu ứng tương tự có xảy ra ở các nước Đông Nam Á không? Điều này đáng để chúng ta tiếp tục theo dõi.
Sự trở lại với chiến lược ngả theo một cách linh hoạt
Mặc dù chủ nghĩa bảo hộ thương mại của Mỹ đã gây ra những lo ngại và bất mãn nghiêm trọng ở các nước Đông Nam Á, đồng thời chủ nghĩa tiểu đa phương và chủ nghĩa đơn phương của nước này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực, nhưng không thể vì vậy mà cho rằng Trump chắc chắn sẽ đẩy các nước Đông Nam Á về phía Trung Quốc.
Điều đáng chú ý là, kể từ khi chính quyền Trump đưa ra chính sách “thuế đối ứng”, các nước ASEAN đều quyết định không trả đũa Mỹ theo cách “có đi có lại”. Chính phủ Việt Nam đã tích cực tham gia các cuộc đàm phán cấp bộ trưởng với Mỹ và cam kết giảm thặng dư thương mại với nước này. Trong khi đó, với tư cách là Chủ tịch luân phiên của ASEAN, Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim kêu gọi các quốc gia thành viên ASEAN thống nhất lập trường, nhưng cũng nhấn mạnh giải quyết tranh chấp thương mại với Mỹ thông qua “đối thoại thẳng thắn và mang tính xây dựng”.
Một mặt, các lựa chọn chính sách của các nước Đông Nam Á phản ánh sự mong manh của nền kinh tế định hướng xuất khẩu của họ. Tỷ trọng thương mại so với GDP của Trung Quốc là 37% (thống kê năm 2023), trong khi của Singapore lên tới 311%, Việt Nam là 166%, Brunei là 137%, Campuchia là 134%, Malaysia là 132% và Thái Lan là 129%. Chỉ có Indonesia (41%), Philippines (67%) và Lào (76%) (số liệu năm 2016) là tương đối thấp. Mặc dù Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các nước Đông Nam Á, nhưng ảnh hưởng thương mại của Trung Quốc chủ yếu được phản ánh ở vai trò là nguồn nhập khẩu lớn nhất.
Không chỉ vậy, xét về thị trường xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc năm 2024 đạt 61,2 tỷ USD, trong khi xuất khẩu sang Mỹ lên tới 136,6 tỷ USD, chiếm gần 30% GDP. Mỹ cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Thái Lan, Philippines và Campuchia. Dưới sức ép từ mối đe dọa thuế quan của Mỹ, các nước Đông Nam Á sẽ hy sinh thương mại với Trung Quốc ở một mức độ nhất định để đổi lấy việc mở cửa thị trường Mỹ. Việt Nam đã cam kết với Mỹ rằng sẽ mạnh tay trấn áp “gian lận thương mại”, bao gồm cả việc vận chuyển bất hợp pháp và làm giả nguồn gốc xuất xứ liên quan đến Trung Quốc, cũng như việc vận chuyển các sản phẩm công nghệ cao của Mỹ sang Việt Nam rồi cuối cùng bán cho Trung Quốc. Thái Lan cũng có biện pháp tương tự. Các cuộc đàm phán giữa các nước Đông Nam Á và Mỹ về thuế quan song phương sẽ đẩy nhanh quá trình tái tổ chức chuỗi cung ứng ở Đông Á, và quan hệ thương mại giữa Trung Quốc với các nước Đông Nam Á có thể vì vậy mà suy yếu.
Mặt khác, quan trọng hơn, các lựa chọn chính sách của các nước Đông Nam Á còn phản ánh rằng họ ưa chuộng chiến lược ngả theo kẻ mạnh một cách linh hoạt. Điều này cũng cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn hữu ích để hiểu về diễn biến trong chiến lược đối ngoại của các nước Đông Nam Á.
Đối mặt với sự leo thang của cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ, lãnh đạo các nước Đông Nam Á nhìn chung nhấn mạnh sự trung lập và hòa bình trong khu vực, đồng thời nhấn mạnh lập trường chính sách từ chối “chọn phe” giữa các cường quốc. Nhưng trong suốt lịch sử khu vực, Đông Nam Á luôn là điểm giao thoa lợi ích của các cường quốc, từ thời kỳ thương mại, thời kỳ thực dân, đến Thế chiến thứ hai và Chiến tranh Lạnh. Giới tinh hoa chiến lược ở Đông Nam Á chẳng xa lạ gì với sự cạnh tranh giữa các cường quốc, và đã hình thành nên một truyền thống văn hóa chiến lược độc đáo và liên tục được kế thừa.
Trong lịch sử, giới tinh hoa chiến lược Đông Nam Á không ngần ngại ngả theo các cường quốc, miễn là điều này có thể mang lại nguồn lực chiến lược từ các cường quốc. Lấy Indonesia làm ví dụ. Ngay từ tháng 9/1948, Thủ tướng Indonesia khi đó là Mohammad Hatta đã lần đầu tiên đề xuất nguyên tắc ngoại giao “độc lập và tích cực”, điều này sau đó đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo cho các chính sách ngoại giao của Indonesia. Nhưng xét về những lựa chọn chiến lược thực tế, Indonesia không từ chối việc ngả theo các cường quốc một cách linh hoạt.
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, chiến lược đối ngoại của Indonesia đã chuyển đổi từ chính sách trung lập thân Mỹ (1949-1952) sang phát triển quan hệ với cả hai phe (1953-1962), và sau đó nghiêng về Khối phía Đông (1963-1965). Sau khi Suharto lên nắm quyền, Indonesia một lần nữa hướng về phương Tây và nhận được một lượng lớn viện trợ quân sự và kinh tế từ Mỹ. Học giả người Anh Michael Leifer cũng cho rằng “chính phủ Indonesia muốn giữ siêu cường ít bị phản đối nhất ở trạng thái sẵn sàng hỗ trợ khi cần (on tap), nhưng không để họ ở vị trí chi phối (not on top)”.
Giới tinh hoa chiến lược của Thái Lan cũng sử dụng cụm từ “cây tre trong gió” để khái quát truyền thống ngoại giao của mình, với biểu hiện cụ thể là nước này thường có thể đảm bảo rằng mình đứng về phía cường quốc chiếm ưu thế hoặc chiến thắng thông qua việc chuyển phe kịp thời.
Trong Thế chiến thứ nhất, Thái Lan đã nối gót Mỹ tuyên chiến với phe Liên minh và giành được tư cách quốc gia chiến thắng để đổi lấy việc Mỹ, Anh và Pháp từ bỏ quyền tài phán của họ ở Xiêm. Trong Thế chiến thứ hai, Thái Lan đã giành lại một số vùng lãnh thổ cũ bị thực dân Pháp và Anh chiếm giữ, thông qua việc liên minh với Nhật Bản. Sau khi Nhật Bản thất bại trong chiến tranh, Thái Lan dựa vào sức mạnh của Mỹ để hạn chế các yêu cầu như bồi thường chiến tranh của Anh và Pháp, và cuối cùng đã hoàn tất quá trình chuyển từ vai trò là đồng phạm của Nhật Bản thành đồng minh của Mỹ.
Sự nhạy bén với việc chuyển giao quyền lực và khả năng tối đa hóa lợi ích quốc gia thông qua việc điều chỉnh chính sách đối ngoại là điều rất phổ biến ở các nước Đông Nam Á. Nhà lập quốc Singapore Lý Quang Diệu từng nói: “Nếu gió Đông thổi mạnh hơn gió Tây, vậy thì người ta đã bắt đầu ngả về hướng đó ngay từ trước khi gió tới rồi.”[1]
Sẽ không có trật tự bá quyền ổn định ở Đông Nam Á
Với tình hình hiện tại, lịch sử trên cung cấp cho các nhà nghiên cứu những gợi ý hữu ích. Khi cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ leo thang, việc ngả theo cường quốc một cách linh hoạt sẽ trở thành một trong những lựa chọn chính sách của các nước Đông Nam Á. Đặc điểm của chiến lược này là thu hút các nguồn lực kinh tế và quân sự từ các cường quốc thông qua việc điều phối chính sách đối ngoại với các cường quốc. Tuy nhiên, khác với sự phụ thuộc, việc ngả theo một cách linh hoạt có nghĩa là các nước Đông Nam Á sẽ cố gắng hết sức để tránh bị ràng buộc với một cường quốc cụ thể, đồng thời đảm bảo rằng họ luôn đứng về phía cường quốc chiếm ưu thế, bằng cách giảm các nghĩa vụ liên minh, thực hiện sự dao động mang tính chiến lược hoặc tái thiết lập chính sách ngoại giao phi chiến lược – tức những thay đổi chính sách đối ngoại xuất phát từ sự thay đổi chính phủ.
Tình hình mới cũng đòi hỏi chúng ta phải phá vỡ những hạn chế lịch sử của các lý thuyết hiện có. Chúng ta thường sử dụng các khái niệm như phòng bị nước đôi, cân bằng nước lớn và cân bằng đa phương để khái quát chiến lược đối ngoại của các nước Đông Nam Á, nhưng chiến lược phòng bị nước đôi được phát triển sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, đặc biệt là từ thế kỷ 21 và bản thân khung lý thuyết này cũng có những hạn chế nhất định về mặt lịch sử. Khi cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ leo thang, chúng ta cần nhìn lại lịch sử và xem xét các lựa chọn chiến lược của các nước Đông Nam Á trong bối cảnh địa chính trị khắc nghiệt, điều này cũng sẽ giúp chúng ta đưa ra những dự đoán chính xác hơn.
Lựa chọn của các nước Đông Nam Á cũng sẽ tác động trực tiếp đến các cường quốc và trật tự khu vực. Sự thay đổi chiến lược của các nước trong khu vực sẽ làm gia tăng nỗi lo ngại chiến lược của các cường quốc. Trong những năm gần đây, giới truyền thông và học thuật trong nước thường trích dẫn kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute), điều này cũng thu hút sự chú ý của giới học thuật Mỹ và theo đó, họ kêu gọi chính phủ Mỹ tăng cường đầu tư vào Đông Nam Á.
Mặc dù các kết quả khảo sát nhìn chung tương đối nhất quán kể từ năm 2019, khi đều chỉ ra rằng ảnh hưởng kinh tế, chính trị và chiến lược của Trung Quốc ở Đông Nam Á đã vượt qua Mỹ, nhưng các con số cụ thể vẫn biến động rất nhiều.
Về ảnh hưởng kinh tế, 76,7% số người được hỏi vào năm 2022 cho rằng Trung Quốc có ảnh hưởng lớn nhất, nhưng tỷ lệ này giảm xuống còn 56,4% vào năm 2025, trong khi tỷ lệ người được hỏi chọn Mỹ tăng từ 9,8% lên 15,4%. Về ảnh hưởng chính trị và chiến lược, số người được hỏi cho rằng Trung Quốc có ảnh hưởng lớn nhất đã giảm từ 54,4% xuống 37,9%, trong khi tỷ lệ chọn Mỹ tăng từ 29,7% lên 31,2%. Điều này cũng phản ánh, ở một khía cạnh nào đó, cái gọi là “ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Nam Á đã vượt qua Mỹ” vẫn chưa hình thành xu hướng không thể đảo ngược. Sự điều chỉnh về ảnh hưởng tương đối giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ là một tiến trình dài hạn.
Trong quá trình này, sự dao động của các nước Đông Nam Á sẽ thúc đẩy sự leo thang cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc. Do các nước Đông Nam Á ưa chuộng chiến lược ngả theo cường quốc một cách linh hoạt, nên các cường quốc có động lực mạnh mẽ để thể hiện sức mạnh của mình trước các nước vừa và nhỏ trong khu vực nhằm duy trì ảnh hưởng của mình ở khu vực. Theo góc độ này, các biện pháp ứng phó của Trung Quốc với Mỹ về vấn đề thương mại là cần thiết, không chỉ đối với quan hệ Trung-Mỹ, mà còn mang ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng.
Tuy nhiên, tính linh hoạt của các nước trong khu vực cũng đồng nghĩa rằng, cả Trung Quốc và Mỹ đều khó có thể thiết lập được vị thế lãnh đạo ổn định, và cả hai nước sẽ liên tục có được và mất đi những quốc gia ngả về phía mình. Đông Nam Á nhiều khả năng sẽ hình thành một trật tự đa nguyên, năng động và phân cấp hơn là một trật tự bá quyền ổn định hoặc cân bằng. Trong khi duy trì ảnh hưởng trong khu vực, Trung Quốc cũng cần tránh tình trạng tiêu tốn quá mức nguồn lực của mình.
Tác giả Tra Văn là giáo sư tại Viện nghiên cứu Quan hệ Quốc tế, Học viện Ngoại giao Trung Quốc.
———————-
[1] Lee Kuan Yew, Meet the Press (Singapore: National Archive of Singapore, 1967), p.7.