Nguồn: Al Mauroni và Glenn Cross, “Will China Force a Rethink of Biological Warfare?”, War on the Rocks, 10/06/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
Bộ Quốc phòng Mỹ có còn đang chuẩn bị cho chiến tranh sinh học như thể vẫn là năm 1970?
Khi chuẩn bị cho chiến tranh sinh học, hầu hết các quốc gia đều hình dung các kịch bản trong đó kẻ thù công khai phun các chất hóa học truyền thống trên diện rộng để tiêu diệt đối thủ. Tuy nhiên, những khả năng mang tính cách mạng trong khoa học đời sống và công nghệ sinh học đã làm thay đổi mối đe dọa. Cách tiếp cận chiến tranh của Trung Quốc, kết hợp với các công nghệ mới nổi này, cho thấy những điểm yếu mới của các lực lượng phương Tây mà cho đến nay vẫn chưa được thừa nhận đầy đủ. Phần lớn là do chính phủ Mỹ tiếp tục dựa vào chiến lược chống vũ khí hủy diệt hàng loạt của thế kỷ 20. Đặc biệt, vì Trung Quốc là một cường quốc hạt nhân lớn, nước này không thể bị đe dọa sau khi sử dụng vũ khí sinh học dễ dàng như một quốc gia phi hạt nhân. Với những điểm này, liệu Trung Quốc có thể bị răn đe không sử dụng các loại vũ khí sinh học tiên tiến như vậy trong một cuộc khủng hoảng khu vực ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, đặc biệt là một cuộc xâm lược Đài Loan? Và nếu không, liệu có thể giảm thiểu thiệt hại từ một kịch bản như vậy không?
Mặc dù sự chú ý của phương Tây đã tập trung vào việc mở rộng nhanh chóng năng lực hạt nhân và chiến tranh thông thường của Trung Quốc, người ta nên mong đợi một phân tích tương đương về tiềm năng chiến tranh sinh học của Trung Quốc. Bằng cách xem xét những nỗ lực nghiên cứu sinh học gần đây nhất của Trung Quốc, chúng tôi cho rằng nước này đã vượt qua các khái niệm chiến tranh sinh học của phương Tây thế kỷ 20 và có những khả năng mới có thể hiệu quả trên toàn bộ phổ xung đột. Với những khả năng mới và kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc, chúng tôi đánh giá rằng các chiến lược răn đe và bảo vệ tiêu chuẩn có thể sẽ không hiệu quả trong tương lai. Các cách tiếp cận mới và các khái niệm mới sẽ cần thiết nếu Mỹ muốn chuẩn bị cho các hình thức chiến tranh sinh học tiềm năng mới trong thế kỷ 21.
Những nghi vấn về nghiên cứu sinh học của Trung Quốc
Có rất ít thông tin nguồn mở đáng tin cậy về chương trình chiến tranh sinh học tấn công của Trung Quốc. Bắc Kinh chưa bao giờ thừa nhận sở hữu một chương trình chiến tranh sinh học, mặc dù chính phủ Mỹ đánh giá rằng Trung Quốc đã có một chương trình chiến tranh sinh học tấn công đang hoạt động từ những năm 1960 cho đến ít nhất là cuối những năm 1980. Chương trình chiến tranh sinh học lịch sử của Bắc Kinh được cho là đã phát triển và vũ khí hóa ricin; độc tố botulinum; và các tác nhân gây bệnh than, tả, dịch hạch và bệnh sốt thỏ. Chính phủ Mỹ liên tục nêu bật những lo ngại – trong cả các báo cáo tuân thủ kiểm soát vũ khí hàng năm của Bộ Ngoại giao cũng như các báo cáo thường niên của Bộ Quốc phòng gửi Quốc hội về sức mạnh quân sự Trung Quốc – về các nghiên cứu tại các viện y tế quân sự Trung Quốc bao gồm việc các nhà nghiên cứu xác định, thử nghiệm và đặc trưng hóa các họ độc tố mạnh đa dạng với các ứng dụng lưỡng dụng.
Khi các lĩnh vực công nghệ sinh học và dược phẩm sinh học của Trung Quốc phát triển và trở nên đổi mới hơn, Trung Quốc cũng đang phát triển khả năng sản xuất lưỡng dụng và kiến thức khoa học liên quan đến nghiên cứu chiến tranh sinh học tấn công phức tạp. Tuy nhiên, chính phủ Mỹ đã không khẳng định rằng Trung Quốc sở hữu một chương trình chiến tranh sinh học tấn công. Rõ ràng, Trung Quốc có khả năng nghiên cứu, phát triển, sản xuất và vũ khí hóa các vũ khí sinh học phức tạp nếu lãnh đạo quốc gia này quyết định làm như vậy. Trong thời gian rất ngắn, Trung Quốc cũng có thể sản xuất một loạt các chất đe dọa sinh học và các hệ thống hệ thống phát tán tinh vi (tức là khả năng huy động chuyển đổi hạ tầng dân sự sang mục đích quân sự).
Lĩnh vực nghiên cứu khoa học đời sống dân sự và các ngành công nghiệp dược phẩm sinh học của Trung Quốc được tích hợp cao với Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) và Viện Khoa học Y học Quân sự của họ. Nhiều nhà nghiên cứu khoa học đời sống trong giới học thuật và công nghiệp phục vụ với tư cách là sĩ quan PLA. Các nhà nghiên cứu khoa học đời sống Trung Quốc cũng được hưởng lợi từ nguồn tài trợ của chính phủ trung ương thông qua Kế hoạch 5 năm lần thứ 14, được công bố vào năm 2021, nhấn mạnh sự tăng trưởng trong các khả năng công nghệ sinh học bản địa của Trung Quốc, đặc biệt là trong sự hội tụ của công nghệ sinh học và công nghệ thông tin. Thông qua chiến dịch “Made in China” của mình, Bắc Kinh cố gắng sản xuất thiết bị y tế, thuốc dự phòng và thuốc chữa bệnh trong nước. Với sự đầu tư của chính phủ và vốn mạo hiểm, các lĩnh vực công nghệ sinh học và dược phẩm sinh học của Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ về vốn hóa thị trường. Một nghiên cứu gần đây do Quốc hội Mỹ tài trợ đã dự đoán rằng Trung Quốc sẽ sớm vượt qua Mỹ trong phát triển công nghệ sinh học nếu Mỹ không nhanh chóng hành động. Khả năng AI của Trung Quốc đã ngang bằng nếu không muốn nói là vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh.
Các báo cáo được công bố từ Trung Quốc từ năm 2005 đến 2020 cho thấy sự quan tâm ngày càng tăng đối với vũ khí sinh học tiên tiến và vai trò của chúng trong xung đột tương lai. Năm 2005, Đại tá Quách Kế Vệ khi đó đã viết một bài báo có ảnh hưởng, “Siêu vi, phi sát thương và có thể đảo ngược: Tương lai của Công nghệ sinh học quân sự”, xem xét các ứng dụng quân sự của proteomics, là các công nghệ chuyển gen được sử dụng để “làm phong phú đáng kể khả năng phòng thủ và tấn công của quân đội”. Đại tá Quách giải thích rằng công nghệ sinh học cung cấp hoặc sẽ sớm cung cấp cho quân đội khả năng thiết kế các chất hóa học “chỉ tấn công kẻ thù chủ chốt mà không gây hại cho người bình thường… Thương tích có thể được giới hạn ở một chuỗi gen cụ thể hoặc một cấu trúc protein cụ thể”. Đại tá Quách đã mở rộng luận điểm của mình trong một cuốn sách, Chiến tranh giành quyền thống trị sinh học, nhấn mạnh vai trò của sinh học trong xung đột tương lai. Năm 2015, Lục Bối Bối và Hạ Phúc Sơ – người sau này là chủ tịch Viện Khoa học Y học Quân sự vào thời điểm đó – đã viết một bài báo trên tờ Nhật báo Quân Giải phóng Nhân dân ca ngợi sự phát triển của “vũ khí và thiết bị kiểm soát não mới sẽ can thiệp và kiểm soát ý thức của con người, từ đó thay đổi phong cách chiến đấu…”
Năm 2017, Trương Sĩ Ba, cựu chủ tịch Đại học Quốc phòng Trung Quốc đã lập luận: “Công nghệ sinh học hiện đại đang dần bộc lộ những dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy khả năng tấn công, bao gồm cả khả năng triển khai các cuộc tấn công di truyền nhắm vào một dân tộc cụ thể”. Chắc chắn, cho đến trước khi COVID-19 xuất hiện, quân đội Trung Quốc đã công khai và tích cực thảo luận về những lợi thế quân sự tiềm năng của các loại vũ khí sinh học thế hệ mới. Ấn bản năm 2020 của Khoa học Chiến lược Quân sự Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của công nghệ sinh học trên chiến trường. Nó đã nêu rõ những điều sau:
Lĩnh vực sinh học đã trở thành một địa hạt hoàn toàn mới cho việc mở rộng phạm vi an ninh quốc gia. Chẳng hạn, các mối đe dọa bao gồm việc sử dụng vũ khí sinh học mới, các cuộc tấn công khủng bố sinh học, dịch bệnh lây lan quy mô lớn, tấn công di truyền nhắm vào một dân tộc cụ thể, cố ý biến đổi gen môi trường sinh thái, thực phẩm và sản phẩm công nghiệp, cùng với việc tận dụng các yếu tố môi trường như di cư dân số, biến đổi khí hậu và thiên tai.
Theo cuộc thảo luận trong cuốn sách này, Trung Quốc dự đoán rằng công nghệ sinh học, bao gồm vũ khí sinh học, sẽ thống trị chiến trường hiện đại. Trung Quốc không chỉ tự bảo vệ mình chống lại việc sử dụng công nghệ sinh học (bao gồm vũ khí sinh học) của đối thủ, mà nước này cũng có khả năng sẵn sàng sử dụng công nghệ sinh học để tấn công. Nhu cầu đòi hỏi Trung Quốc phải nắm thế chủ động được nhấn mạnh trong Khoa học Chiến lược Quân sự:
Tình hình xung đột quân sự trong lĩnh vực sinh học đang trở nên ngày càng nghiêm trọng. Chúng ta phải hiểu thật rõ tầm quan trọng và tính cấp bách của nó, và chủ động nắm bắt các cuộc xung đột trong lĩnh vực sinh học này ở cấp độ bảo vệ an ninh quốc gia tổng thể, tăng cường chỉ đạo chiến lược và nâng cao toàn diện năng lực đối phó chiến lược đối với xung đột quân sự trong lĩnh vực sinh học.
Việc không còn thấy bất kỳ thảo luận nào về chủ đề này trên các tài liệu công khai của Trung Quốc gần đây đã làm dấy lên lo ngại rằng các công trình hiện tại giờ đây đã được mật mã hóa. Ngoài các tuyên bố của Trung Quốc, người ta cũng cần xem xét sự hiểu biết về các yếu tố xã hội và kỹ thuật có thể khuyến khích hoặc không khuyến khích khả năng vũ khí sinh học của Trung Quốc, mà cho đến nay, đã đưa ra một bức tranh lẫn lộn về nghiên cứu vũ khí sinh học của Trung Quốc. Tóm lại, có rất nhiều hình thức mà khả năng này có thể được biểu hiện trong một cuộc xung đột khu vực.
Các tùy chọn để chống lại mối đe dọa vũ khí sinh học của Trung Quốc
Lời kêu gọi giải quyết các mối đe dọa sinh học như một lĩnh vực chiến tranh phần lớn sẽ thất bại vì một số lý do, đặc biệt là xu hướng đồng nhất các sự cố sinh học có chủ đích và các đợt bùng phát dịch bệnh tự nhiên. Với tác động của COVID-19 và mối đe dọa từ các đợt bùng phát dịch bệnh tự nhiên, các lời kêu gọi tăng cường tài trợ và chú ý đến việc giảm thiểu tác động của các sự kiện như vậy là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, sự ưu tiên này làm chệch hướng mọi sự tập trung có ý nghĩa vào các mối đe dọa sinh học có chủ đích với hy vọng rằng các chương trình y tế công cộng sẽ giảm thiểu bất kỳ đợt bùng phát dịch bệnh có chủ đích nào. Cách tiếp cận này không thể đáp ứng được xu hướng tích hợp các phương pháp và công nghệ sinh học mới vào chiến tranh trong kỷ nguyên cạnh tranh cường quốc gay gắt.
Ngoài ra, lập luận này thường không đánh giá được các tác động gián tiếp và dài hạn của một quyết định như vậy. Phần lớn các nhà phân tích quốc phòng và hoạch định chính sách đã xem các vấn đề phòng thủ hóa học và sinh học là những khía cạnh thứ yếu, chứ không phải chính yếu của chiến tranh. Bằng cách tạo ra một “lĩnh vực sinh học”, các cơ quan quốc phòng Mỹ sẽ đẩy các mối lo ngại về chiến tranh sinh học vào một cộng đồng kỹ thuật nhỏ, biệt lập và tiếp tục bỏ qua tác động tiềm tàng của vũ khí sinh học đối với các kế hoạch tác chiến.
Chiến lược của chính phủ Mỹ để giải quyết các mối đe dọa chiến tranh sinh học dựa trên hai khái niệm khác biệt: (1) đe dọa trả đũa quy mô lớn và phát triển các biện pháp phòng thủ vững chắc cho lực lượng Mỹ, đồng thời (2) dựa vào các biện pháp y tế công cộng nhằm cải thiện khả năng phục hồi của dân thường. Việc cố gắng răn đe Trung Quốc sử dụng vũ khí sinh học thông qua lời đe dọa trả đũa sẽ thất bại. Ngay cả khi chính quyền Mỹ kêu gọi tùy chọn sử dụng vũ khí hạt nhân để đáp trả một cuộc tấn công hóa học hoặc sinh học, thật khó tin rằng điều này sẽ xảy ra nếu cuộc tấn công sinh học không gây ra thương vong đáng kể cho Mỹ. Lãnh đạo Trung Quốc sẽ không sợ các cuộc tấn công trả đũa quân sự bổ sung của Mỹ nếu nước này đang trong quá trình chiếm Đài Loan, một trong những mục tiêu chính trong công cuộc phục hưng đất nước của Trung Quốc. Ngoài ra, kho vũ khí hạt nhân chiến lược của Trung Quốc và ưu thế thông thường vượt trội ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương sẽ khiến các nhà hoạch định chính sách Mỹ tự mình ngăn cản việc tiến hành bất kỳ cuộc trả đũa không tương xứng nào để đáp lại việc sử dụng vũ khí sinh học.
Tương tự, răn đe bằng khả năng chống tiếp cận sẽ không hiệu quả nếu các đồng minh và đối tác của Mỹ ở Đông Nam Á không được chuẩn bị đầy đủ để ngăn chặn các mối đe dọa sinh học bất kể nguồn gốc. Rất ít quốc gia có đủ kinh phí và sự hỗ trợ của công chúng để phát triển các biện pháp phòng thủ mạnh mẽ chống lại tất cả các mối đe dọa sinh học tiềm tàng. Các bệnh truyền nhiễm và không truyền nhiễm gây ra hàng chục nghìn cái chết mỗi năm và tiêu tốn một lượng lớn ngân sách liên bang. Khi Mỹ cắt giảm đáng kể các biện pháp an ninh y tế của mình và tiếp tục cắt giảm tài trợ đầy đủ cho các chương trình phòng thủ hóa học và sinh học quân sự và dân sự, răn đe bằng khả năng chống tiếp cận trở nên bất khả thi. Răn đe bằng cách chống tiếp cận sẽ không hiệu quả chừng nào Trung Quốc còn hiểu rằng Mỹ trên thực tế không có khả năng phòng thủ sinh học mạnh mẽ và khả năng giám sát sức khỏe.
Vậy thì, chính phủ Mỹ có thể làm gì để thích nghi với tương lai mới này? Trước hết, chúng ta nên xem xét rằng việc răn đe Trung Quốc sử dụng giới hạn các chất hóa học trong chiến tranh sinh học trong một cuộc xung đột khu vực là không khả thi, tương tự như cách Nga đã sử dụng các chất hóa học phi sát thương bị cấm ở Ukraine để đạt được thành công trên chiến trường. Việc nhận ra rằng mối đe dọa này không còn giống các mối đe dọa trong Chiến tranh Lạnh là bước đầu tiên để tiến tới các khái niệm và năng lực thực tế.
Các cơ quan điều hành của Mỹ phải tập trung vào các năng lực cốt lõi của họ. Các chiến lược và tài trợ của Bộ Quốc phòng nên tập trung vào các mối đe dọa sinh học có chủ đích, trong khi các chiến lược và tài trợ của Bộ Y tế và Dịch vụ Dân sinh giải quyết các mối đe dọa sinh học tự nhiên. Điều này sẽ đòi hỏi sự chỉ đạo từ các nhà lãnh đạo quốc phòng hàng đầu, điều đã thiếu trong lĩnh vực này một thời gian. Mỹ phải nhanh chóng tận dụng sự quan tâm của Quốc hội trong việc tối đa hóa lợi ích của công nghệ sinh học cho quốc phòng, như được nêu trong Ủy ban An ninh Quốc gia về Công nghệ sinh học mới nổi. Bộ Quốc phòng nên ngay lập tức thành lập một văn phòng dưới quyền trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về mua sắm và duy trì để nghiên cứu các mối đe dọa và tận dụng các công nghệ sinh học mới tiềm năng.
Cuối cùng, chính phủ Mỹ phải giải quyết các điểm yếu của cơ sở hạ tầng quốc phòng quan trọng, đặc biệt là ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, đối với các mối đe dọa sinh học mới ảnh hưởng đến trang thiết bị cũng như con người, và áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro để giảm thiểu chúng. Bộ Quốc phòng cũng nên thúc đẩy việc tăng cường khả năng chống chịu hạt nhân của cơ sở hạ tầng quan trọng để giảm khả năng bị tấn công của Trung Quốc. Công nghệ để tăng cường khả năng chống chịu của cơ sở hạ tầng quốc phòng đã có, nhưng không có sự ưu tiên để thực hiện các kế hoạch này.
Kết luận
Quan điểm truyền thống về việc sử dụng vũ khí sinh học quy mô lớn trên chiến trường, đặc biệt là trong các cuộc tấn công bao phủ diện rộng, đã lỗi thời và bắt nguồn từ các học thuyết Chiến tranh Lạnh lỗi thời về một thế giới lưỡng cực. Điều này không có nghĩa là vũ khí sinh học không phải là mối đe dọa hiện hữu – những tiến bộ không ngừng trong công nghệ sinh học, kỹ thuật di truyền và AI đều có cả ứng dụng quân sự lẫn ý nghĩa đối với sức khỏe cộng đồng. Thách thức hiện tại và tương lai là thuyết phục các nhà hoạch định chính sách không nhìn nhận vũ khí sinh học một cách độc lập, mà phải đặt chúng trong bối cảnh các quốc gia đối địch có thể sử dụng chúng để phục vụ ưu tiên quốc gia và mục tiêu quân sự của họ.
Vũ khí sinh học không phải là mối đe dọa chính yếu — chúng chỉ là yếu tố bổ trợ cho việc một quốc gia sử dụng vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân. Đồng thời, chúng có tính hữu dụng hạn chế trong một số tình huống mà các quốc gia có năng lực công nghiệp tiên tiến không tự tin rằng vũ khí thông thường của họ có thể mang lại chiến thắng. Trung Quốc có ưu thế thông thường vượt trội ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nhưng phải đối mặt với những thách thức đáng kể nếu cố gắng chiếm Đài Loan bằng vũ lực. Do đó, người ta có thể hình dung việc Trung Quốc sử dụng công nghệ sinh học để mang lại lợi thế cho lực lượng quân sự của mình khi các hạm đội đổ bộ đó xuất phát từ đại lục.
Sức mạnh thông thường và hạt nhân của Trung Quốc làm suy yếu các lập luận về răn đe bằng cách trả đũa, và sự không sẵn lòng của Mỹ trong việc đầu tư vào phòng thủ sinh học quân sự và y tế công cộng làm suy yếu các lập luận về răn đe bằng các khả năng chống xâm nhập. Các nhà hoạch định chính sách và nhà phân tích quân sự ngày nay phải từ bỏ các khái niệm về việc sử dụng vũ khí sinh học quy mô lớn của quân đội đã phát triển từ các cuộc chạy đua vũ trang thời Chiến tranh Lạnh. Những kịch bản lịch sử này không có ứng dụng trong chiến tranh sinh học hiện đại. Các nhà hoạch định chính sách và quân sự ngày nay phải cùng nhau xem xét lại mối đe dọa vũ khí sinh học và thực hiện các bước để loại bỏ các mô hình đe dọa của thế kỷ 20 đối với phòng thủ sinh học.
Al Mauroni là nhà phân tích chính sách cấp cao với 40 năm kinh nghiệm về phòng thủ hóa học và sinh học quân sự Mỹ, đồng thời là tác giả của cuốn Khủng hoảng sinh học: Định nghĩa các mối đe dọa sinh học trong chính sách đối ngoại Mỹ.
Glenn Cross, Tiến sĩ, là cựu phó sĩ quan tình báo quốc gia về vũ khí hủy diệt hàng loạt, chịu trách nhiệm phân tích vũ khí sinh học.