Đã đến lúc khép lại cơ hội gia nhập NATO của Ukraine

Nguồn: Charles Kupchan, “Close NATO’s Door to Ukraine”, Foreign Affairs,  20/06/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Tổng thống Donald Trump đã trở lại Nhà Trắng với lời hứa sẽ kết thúc cuộc chiến ở Ukraine “trong 24 giờ”. Kể từ đó, chính quyền của ông đã không thể xử lý hiệu quả các nỗ lực ngoại giao nhằm đạt được lệnh ngừng bắn. Trump đã đánh giá thấp quyết tâm của Tổng thống Nga Vladimir Putin trong việc chinh phục Ukraine và do đó đã không gây áp lực cưỡng chế cần thiết lên Kremlin để ngăn chặn hành động gây hấn đang diễn ra.

Tuy nhiên, giữa những nỗ lực ngoại giao vụng về tại Ukraine, chính quyền Trump đã có một quyết định chiến lược đúng đắn: đã đến lúc đưa việc Ukraine gia nhập NATO ra khỏi bàn đàm phán. Sau nhiều năm hứa hẹn đưa Ukraine vào liên minh, Washington cuối cùng cũng đang thay đổi hướng đi. Vào tháng 2, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth tuyên bố rằng “Mỹ không tin rằng việc Ukraine gia nhập NATO là một kết quả thực tế của một thỏa thuận đàm phán”.

Việc loại bỏ tư cách thành viên sẽ giúp đàm phán ngừng bắn với Nga dễ dàng hơn. Nga có những phản đối hợp lý đối với việc Ukraine gia nhập NATO, điều này một phần đã thúc đẩy cuộc xâm lược của họ vào năm 2022. Và về phần mình, chính quyền Trump không đơn độc trong việc phản đối Ukraine gia nhập NATO; bất chấp những cam kết trong quá khứ, một sự đồng thuận trong liên minh để mời Ukraine gia nhập chưa bao giờ xuất hiện và khó có thể thành hiện thực trong tương lai gần. Mặc dù đã dành ba năm qua để trang bị vũ khí cho Kyiv, các thành viên NATO đã không đưa quân đội của mình vào chiến trường. Bằng cách đó, họ đã làm rõ rằng liên minh không tin rằng việc bảo vệ Ukraine sẽ dẫn đến chiến tranh giữa NATO và Nga. Nếu cứ giả vờ, Kyiv sẽ chỉ thêm ảo tưởng mà cố gắng xin gia nhập, và khi không được thì ban lãnh đạo Ukraine sẽ càng mất uy tín. Thay vào đó, người Ukraine nên theo đuổi các lựa chọn thực tế hơn để đảm bảo tương lai của họ.

Tại hội nghị thượng đỉnh NATO năm nay, sẽ diễn ra vào tuần tới tại The Hague, liên minh nên cam kết cung cấp cho Ukraine những gì cần thiết để tự vệ trước Nga. Nhưng NATO cũng nên tận dụng thời điểm này để làm rõ rằng việc gia nhập không phải là tương lai của Ukraine. Việc khép lại cơ hội đối với Ukraine sẽ cho phép Kyiv và những người ủng hộ nước này tiếp tục nhiệm vụ đưa ra các kế hoạch khác để cung cấp cho đất nước này an ninh cần thiết và xứng đáng.

Đừng đến gần sân sau của Nga

Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, liên minh quân sự hùng mạnh nhất thế giới, đã chiến thắng khối Hiệp ước Warsaw do Liên Xô lãnh đạo, đã thêm thành viên mới vào hàng ngũ của mình và điều chuyển các lực lượng có năng lực cao ngày càng gần lãnh thổ Nga. Qua bảy đợt mở rộng, NATO đã tăng từ 16 thành viên năm 1991 lên 32 thành viên như ngày nay.

Moscow đã phản đối việc mở rộng NATO ngay khi liên minh nảy ra ý tưởng vào đầu những năm 1990. Năm 1993, Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã cảnh báo về việc mở rộng về phía đông của liên minh, lập luận rằng Moscow “chắc chắn sẽ coi đây là một kiểu cô lập mới đối với đất nước chúng tôi, đối lập hoàn toàn với mong muốn hòa nhập vào khu vực châu Âu-Đại Tây Dương”. Hai năm sau, Yeltsin nói thẳng hơn với Tổng thống Mỹ Bill Clinton: “Nếu tôi đồng ý với việc biên giới NATO mở rộng về phía Nga thì tôi sẽ bị coi là đã phản bội người Nga.”

Sự bất mãn của Nga đã tăng lên cùng với số lượng thành viên của NATO, đặc biệt sau khi Putin nhậm chức vào năm 1999 và theo đuổi chính sách đối ngoại đối đầu hơn. Tại Hội nghị An ninh Munich năm 2007, Putin mô tả việc mở rộng NATO là “một sự khiêu khích nghiêm trọng” và hỏi, “Tại sao cần phải đặt cơ sở hạ tầng quân sự trên biên giới của chúng tôi?” Một năm sau, chính quyền George W. Bush, bất chấp sự phản đối của Đức và các đồng minh châu Âu khác, đã thuyết phục NATO tuyên bố tại hội nghị thượng đỉnh Bucharest rằng Gruzia và Ukraine sẽ trở thành thành viên. Ngay sau đó, Nga đã giành quyền kiểm soát hai khu vực bất ổn của Gruzia, ngăn chặn hiệu quả việc nước này gia nhập NATO. Tương tự, các cuộc xâm lược Ukraine của Putin vào năm 2014 và 2022 nhằm, ít nhất một phần, ngăn chặn việc nước này gia nhập liên minh. Trong bài phát biểu khi bắt đầu “chiến dịch quân sự đặc biệt” của Nga tại Ukraine vào tháng 2 năm 2022, Putin đã đề cập “các mối đe dọa cơ bản mà các chính trị gia phương Tây vô trách nhiệm đã tạo ra cho Nga”, đặc biệt nhấn mạnh “việc mở rộng NATO về phía đông, vốn đang di chuyển cơ sở hạ tầng quân sự của mình ngày càng gần biên giới Nga”.

Mỹ đã liên tục bác bỏ những phản đối này. Khi Tổng thống Clinton bắt đầu vòng mở rộng đầu tiên tại hội nghị thượng đỉnh NATO năm 1997, ông lập luận rằng cánh cửa rộng mở của NATO sẽ “xóa bỏ đường ranh giới nhân tạo ở châu Âu do Stalin vẽ ra vào cuối Thế chiến II”. Ngoại trưởng Madeleine Albright đã cố gắng xoa dịu những lo ngại của Nga bằng cách lập luận rằng NATO vẫn là một “liên minh phòng thủ mà . . . không coi bất kỳ quốc gia nào là đối thủ của mình”, trấn an Moscow rằng “NATO không gây nguy hiểm cho Nga”.

Washington và các đồng minh của mình tiếp tục giữ quan điểm này trong các đợt mở rộng liên tiếp và qua cả các chính quyền Dân chủ và Cộng hòa. Thật vậy, khi quân đội Nga tập trung ở biên giới Ukraine vào đầu năm 2022, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã khăng khăng rằng “Mỹ và NATO không phải là mối đe dọa đối với Nga”, một tuyên bố được lặp lại bởi Tổng thư ký NATO khi đó Jens Stoltenberg. Ngoại trưởng Antony Blinken nhắc lại rằng “bản thân NATO là một liên minh phòng thủ. . . . Và ý tưởng rằng Ukraine là một mối đe dọa đối với Nga, hoặc, về vấn đề đó, rằng NATO là một mối đe dọa đối với Nga là hoàn toàn sai lầm và lệch lạc”.

Tuy nhiên, những lập luận như vậy hoặc ngây thơ về mặt địa chính trị hoặc không trung thực. Hoàn toàn có thể hiểu được rằng Nga không muốn cho phép một liên minh hiện diện tại khu vực lân cận của mình, mặc dù mang tính phòng thủ, nhưng vẫn mang lại sức mạnh quân sự dư thừa. Cho dù đó là xe tăng và máy bay tốt nhất của NATO, vũ khí tấn công tầm xa, hay các cơ sở thu thập thông tin tình báo, việc NATO kết nạp Ukraine sẽ gây ra mối đe dọa đối với Nga do khoảng cách quá gần. Nga, bao gồm cả vùng lãnh thổ tách rời Kaliningrad, đã có năm thành viên NATO ở biên giới của mình và nhiều hơn nữa ở khu vực lân cận. Nhưng với vị trí chiến lược, quy mô và mối liên hệ lịch sử của Ukraine với Nga, Moscow đặc biệt kiên quyết rằng nước này không được tham gia hàng ngũ NATO.

Nga hầu như không phải là cường quốc duy nhất muốn giữ các đối thủ ra khỏi khu vực lân cận của mình. Trên thực tế, những phản đối của Moscow đối với việc Ukraine gia nhập NATO nên dễ dàng nhận thấy đối với các nhà hoạch định chính sách ở Mỹ, nước này trong suốt lịch sử của mình đã ưu tiên đẩy các cường quốc khác ra khỏi khu vực lân cận của mình. Từ thời lập quốc cho đến thế kỷ 20, Washington đã kết hợp giữa ngoại giao và ép buộc để đẩy các đối thủ châu Âu ra khỏi Tây Bán cầu. Kể từ cuối những năm 1800, nước này đã nhiều lần sử dụng can thiệp quân sự để duy trì ảnh hưởng của mình ở Mỹ Latinh.

Sự bảo hộ khu vực lân cận tiếp tục trong Chiến tranh Lạnh, với việc Washington nỗ lực hết sức để đẩy Liên Xô và những người ủng hộ ý thức hệ của nó ra khỏi khu vực. Cuộc cạnh tranh lên đến đỉnh điểm với cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, đưa hai nước đến bờ vực chiến tranh. Gần đây hơn, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Ned Price đã hứa rằng Mỹ sẽ “phản ứng nhanh chóng và quyết đoán” sau khi Nga cân nhắc việc triển khai quân đội của mình ở Mỹ Latinh vào năm 2022. Với lịch sử của chính mình vẫn còn rõ ràng trong tâm trí, Washington lẽ ra nên quan tâm hơn đến những lo ngại của Nga về việc Ukraine gia nhập NATO.

Những lập luận này hoàn toàn không biện minh cho các cuộc xâm lược Ukraine của Nga vào năm 2014 và 2022, cũng như không hợp pháp hóa tham vọng đế quốc của Putin hay ảo tưởng của ông về mối quan hệ văn minh không thể phá vỡ giữa Nga và Ukraine. Nhưng đã đến lúc các quan chức Mỹ phải nhận ra những thực tế địa chính trị đang đối mặt với họ. Khi Đặc phái viên về Ukraine và Nga Keith Kellogg giải thích lý do tại sao “Ukraine gia nhập NATO không nằm trên bàn đàm phán” vào tháng 5, ông thừa nhận rằng những phản đối của Nga là “một mối lo ngại chính đáng”. Sự tỉnh táo và thận trọng chiến lược như vậy sẽ hữu ích khi chính quyền Trump tìm cách thuyết phục Putin chấm dứt chiến tranh.

Dẫn dắt họ đến sai lầm

Chấm dứt việc Ukraine theo đuổi tư cách thành viên NATO không chỉ giúp đàm phán ngừng bắn dễ dàng hơn, mà còn là cách nói thẳng với Kyiv thay vì tiếp tục đưa ra những lời hứa có thể sẽ không bao giờ được thực hiện. Tuyên bố năm 2008 của NATO rằng Gruzia và Ukraine cuối cùng sẽ trở thành thành viên là một sự thỏa hiệp; chính quyền Bush muốn thúc đẩy họ đến tư cách thành viên, mặc dù các nhà lãnh đạo châu Âu lo sợ rằng làm như vậy sẽ gây căng thẳng trong quan hệ với Moscow. Lời tuyên bố rằng hai nước “sẽ trở thành thành viên” chỉ là một cách nói đầy hy vọng và mang tính trấn an; NATO không hề có lịch trình hay kế hoạch cụ thể nào cho việc kết nạp hai nước này.

Nhưng ngôn ngữ ôn hòa đó vẫn gây ra những hậu quả to lớn. Không lâu sau tuyên bố của NATO, Tổng thống Gruzia Mikheil Saakashvili đã châm ngòi cho một cuộc xung đột bạo lực với lực lượng ly khai thân Nga tại khu vực Nam Ossetia. Vụ việc đã tạo cớ cho Nga gửi lực lượng quân sự và giành quyền kiểm soát cả Nam Ossetia và Abkhazia. NATO hầu như án binh bất động. Saakashvili rốt cuộc đã quá tin tưởng vào sự hỗ trợ của phương Tây.

Mặc dù đi theo một con đường khác so với Gruzia, Ukraine đã kết thúc trong một tình thế tương tự. Nghiêng về phương tây kể từ Cách mạng Maidan năm 2014 và cuộc xâm lược Crimea và Donbas sau đó của Nga, người Ukraine đã đưa khát vọng gia nhập NATO vào hiến pháp của họ vào năm 2019. Nhưng khi Nga lại xâm lược vào năm 2022, mặc dù các nước NATO đã nhanh chóng gửi vũ khí cho Ukraine, nhưng binh lính Ukraine đã phải tự mình chiến đấu.

Nhiều thành viên NATO đương nhiên cảm thấy có nghĩa vụ đạo đức phải tiếp tục tôn trọng lời cam kết mở rộng tư cách thành viên cho Ukraine. Nhưng kết quả là những kỳ vọng tan vỡ và sự thất vọng ngày càng tăng. Sau khi Tổng thống Volodymyr Zelenskyy đưa ra một tuyên bố gay gắt gọi việc NATO không sẵn lòng tiến tới tư cách thành viên của Ukraine là “vô lý” tại hội nghị thượng đỉnh năm 2023 ở Vilnius, NATO đã tiến lên một bước, khẳng định rằng “tương lai của Ukraine nằm ở NATO”. Một lần nữa dưới áp lực từ Kyiv, liên minh vào năm 2024 đã tiến thêm một bước nữa, đảm bảo với Ukraine rằng con đường gia nhập của họ là “không thể đảo ngược”.

Nhưng những lời lẽ đó chỉ là lừa dối; Ukraine vẫn đứng trước ngưỡng cửa NATO, được khuyến khích tiếp tục chờ đợi bên ngoài nhưng không bao giờ được phép vào. Kyiv cuối cùng sẽ tốt hơn khi biết sự thật khó khăn.

Nói suông không bằng hành động

Mặc dù họ chưa thừa nhận điều đó, các quốc gia thành viên đã thực hiện một bước quyết định để khép lại cơ hội tư cách thành viên NATO đối với Ukraine: họ đã làm rõ qua hành động của mình rằng họ không coi việc đi đến chiến tranh với Nga để bảo vệ Ukraine là lợi ích của mình. Trong hơn ba năm chiến đấu, khoảng 500.000 người Ukraine đã mất mạng hoặc bị thương trong cuộc kháng chiến dũng cảm trước cuộc tấn công của Nga. Mỹ và các đối tác của họ đã cung cấp gần 300 tỷ USD viện trợ quân sự và kinh tế cho Ukraine. Nhưng các nước NATO đã không cử một binh sĩ nào tham gia cuộc chiến, vì đã kết luận rằng việc bảo vệ Ukraine không biện minh cho một cuộc chiến trực tiếp giữa NATO và Nga. Sự thận trọng của họ còn vượt ra ngoài việc từ chối đưa quân đội vào chiến trường. Các nhà bảo trợ NATO của Ukraine cũng đã cẩn thận cân đối mức độ sát thương và tầm bắn của vũ khí được cung cấp để giảm nguy cơ leo thang với Nga.

Các nhà lãnh đạo liên minh có thể tuyên bố rằng Ukraine đang chiến đấu vì tương lai của phương Tây; rằng cuộc chiến đại diện cho tiền tuyến trong cuộc chiến vì dân chủ; rằng việc bảo vệ trật tự dựa trên luật lệ đòi hỏi phải trục xuất quân đội Nga khỏi Ukraine; và rằng nếu Putin không bị đánh bại ở Ukraine, một quốc gia NATO có thể là mục tiêu tiếp theo. Nhưng hành động lớn hơn lời nói. Dưới sự lãnh đạo của Washington, NATO đã quyết định rằng việc bảo vệ Ukraine không đáng để gây ra Thế chiến III.

Do đó, NATO không nên mở rộng bảo đảm an ninh cho Ukraine một khi cuộc chiến kết thúc, do đó buộc liên minh phải đi đến chiến tranh với Nga nếu nước này lại xâm lược. Nếu Ukraine bị Nga tấn công sau khi trở thành thành viên NATO, NATO đương nhiên có thể quyết định không chiến đấu thay mặt nước này. Nhưng việc không bảo vệ một quốc gia thành viên sẽ làm xói mòn uy tín của liên minh. Tóm lại, NATO sẽ rơi vào một tình thế bất khả thi: chiến đấu chống lại một cuộc chiến chống lại Nga mà trước đó họ đã xác định không đáng chiến đấu hoặc rút lui và làm suy yếu vĩnh viễn—và có lẽ chí tử—liên minh phương Tây trong quá trình đó.

Khép lại cơ hội nhưng không bỏ rơi

Việc chứng kiến nỗ lực gia nhập NATO thất bại sẽ là một thực tế khắc nghiệt và đau đớn đối với Ukraine khi nước này tiếp tục hứng chịu các cuộc tấn công tàn bạo của Nga. Nhưng việc chấm dứt ảo tưởng rằng Ukraine đang trên con đường gia nhập NATO không có nghĩa là từ bỏ an ninh của đất nước. Ngược lại, Kyiv sẽ biết vị trí của mình, khuyến khích nước này tập trung vào các mục tiêu dễ đạt được hơn.

Kyiv nên tập trung vào việc thuyết phục Washington và các đối tác khác tiếp tục cung cấp vũ khí và tận dụng tối đa các hiệp ước an ninh song phương đã xuất hiện từ các cuộc đàm phán bên lề hội nghị thượng đỉnh NATO năm 2023. Ukraine cũng nên đẩy nhanh việc gia nhập EU, một quá trình sẽ thúc đẩy các cải cách kinh tế và chính trị và cuối cùng mang lại cho đất nước một dạng đảm bảo an ninh mà họ mong muốn; Điều 42.7 của Hiệp ước Liên minh châu Âu là một điều khoản phòng thủ chung. Moscow đã chỉ ra rằng họ có thể chấp nhận việc Ukraine hội nhập vào EU, mà họ coi là một khối kinh tế và chính trị ôn hòa hơn, chứ không phải là một liên minh quân sự.

Đề xuất đã xuất hiện từ các nỗ lực ngoại giao của Trump là hợp lý: một lệnh ngừng bắn, với Nga giữ khoảng 20% lãnh thổ Ukraine mà nước này hiện đang chiếm đóng. Nhưng thỏa thuận đó chỉ có thể chấp nhận được nếu 80% còn lại của Ukraine trở thành một nền dân chủ có chủ quyền, an toàn và thịnh vượng. Để đạt được kết quả đó sẽ yêu cầu NATO cung cấp cho Ukraine khả năng quân sự, huấn luyện và tình báo cần thiết để ngăn chặn các cuộc tiến công tiếp theo của Nga, cho phép Kyiv làm rõ với Putin rằng ông đã chinh phục đủ Ukraine như ông sẽ có được. Ukraine khó có thể từ bỏ việc khôi phục toàn vẹn lãnh thổ của mình. Nhưng mục tiêu đó nên được theo đuổi tại bàn đàm phán với một nước Nga sau Putin, chứ không phải trên chiến trường. Hiện tại, Kyiv nên tập trung vào việc đảm bảo một lệnh ngừng bắn bền vững và biến một Ukraine tự do thành một câu chuyện thành công.

Việc đưa tư cách thành viên NATO của Ukraine ra khỏi bàn đàm phán sẽ giúp đạt được thỏa thuận như vậy dễ dàng hơn nhiều. Putin có nhiều khả năng chấm dứt cuộc chiến hơn nếu ông tin tưởng rằng Ukraine sẽ không gia nhập NATO sau đó. Đổi lại, NATO nên yêu cầu Nga đồng ý không chỉ chấm dứt vĩnh viễn cuộc chiến mà còn từ bỏ các yêu sách lãnh thổ tiếp theo cũng như bất kỳ hạn chế nào đối với lực lượng vũ trang Ukraine và khả năng tự vệ của nước này.

Một sự đồng thuận của NATO đằng sau kế hoạch này có thể khó đạt được; một số thành viên, đặc biệt dọc theo sườn phía đông của NATO, vẫn muốn đưa Ukraine vào liên minh. Tuy nhiên, ông Trump nên tận dụng sự thẳng thắn đặc trưng của mình, dám nói ra điều mà những người khác đang nghĩ nhưng không dám thốt lên, và thừa nhận một sự thật đơn giản: Ukraine không thể gia nhập NATO. Ông nên làm rõ rằng chính quyền của ông sẵn sàng cung cấp cho Ukraine sự giúp đỡ cần thiết để tự vệ, nhưng khi nói đến việc nước này gia nhập NATO, cánh cửa giờ đây phải khép lại.

CHARLES KUPCHAN là Giáo sư Quan hệ Quốc tế tại Đại học Georgetown và Nghiên cứu viên cao cấp tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại. Cuốn sách gần đây nhất của ông là Chủ nghĩa Biệt lập: Lịch sử Nỗ lực Tự Bảo vệ khỏi Thế giới của Mỹ.