Nguồn: Nataliya Bugayova, “Russia’s War Is Also Cognitive”, Foreign Policy, 01/08/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
Nga đang sử dụng chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức – một hình thức chiến tranh tập trung vào việc gây ảnh hưởng đến tư duy, quyết định và hành động của đối phương – để đạt được các mục tiêu chiến lược mà họ không thể đạt được chỉ bằng năng lực vật lý của mình. Nga không phải là quốc gia duy nhất làm như vậy. Trung Quốc, Iran và Triều Tiên cũng ngày càng sử dụng chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức chống lại Mỹ. Tuy nhiên, Nga đã chứng tỏ đặc biệt thành thạo trong việc sử dụng nó để hỗ trợ cuộc chiến chống Ukraine, định hình các quyết định của phương Tây, bảo vệ chế độ của Tổng thống Vladimir Putin và che giấu những điểm yếu của Nga. Mặc dù chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức không phải là chiến lược tác chiến duy nhất của Điện Kremlin, nhưng điều quan trọng là phải hiểu nỗ lực của Điện Kremlin nhằm khiến thế giới nhìn nhận mọi thứ theo cách mà Moscow mong muốn – và để chúng ta đưa ra quyết định dựa trên thực tế do Điện Kremlin tạo ra đó.
Mục tiêu cuối cùng của chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức của Nga là ý chí hành động của đối phương. Để Nga đạt được nhiều lợi ích hơn, các quốc gia khác cần phải hành động ít hơn. Nga có thể sẽ thua nếu phương Tây quyết liệt hỗ trợ Ukraine. Nền kinh tế kết hợp của các quốc gia NATO, các quốc gia Liên minh châu Âu không phải NATO và các đồng minh châu Á của Mỹ vượt xa Nga, cùng nhiều yếu tố khác. Do đó, mục tiêu của Nga là khiến Mỹ tự suy luận rồi kết luận rằng việc Nga thắng thế ở Ukraine là không thể tránh khỏi – hoặc thậm chí phù hợp với lợi ích của Mỹ – và rằng Washington nên đứng ngoài cuộc.
Chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức không chỉ đơn thuần là thông tin sai lệch ở cấp độ chiến thuật. Nga sử dụng tất cả các nền tảng truyền tải thông điệp – truyền thông, hội nghị, các khuôn khổ quốc tế, kênh ngoại giao, cá nhân – làm công cụ trong chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức của mình. Nỗ lực này cũng được hỗ trợ bởi các hoạt động vật lý, bao gồm tập trận quân sự, phá hoại, tấn công mạng và các hoạt động chiến đấu.
Điện Kremlin sẽ thành công nếu thuyết phục được mọi người rằng sự thật quá khó để nhận biết, việc chống lại Nga quá khó khăn, và quá khó để phân biệt bên nào đúng bên nào sai.
Chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức ra đời từ nhu cầu và cơ hội. Nga không yếu, nhưng nước này tương đối yếu tương so với các mục tiêu của mình. Các mục tiêu của Putin vẫn giữ nguyên trong nhiều năm: cụ thể là bảo vệ chế độ của ông; phục hồi vị thế cường quốc cho Nga, bao gồm việc giành lại quyền kiểm soát các nước thuộc Liên Xô cũ; và thiết lập một trật tự thế giới mà trong đó Mỹ bị suy yếu, sự thống nhất của NATO bị phá vỡ, và Nga có ảnh hưởng quyết định.
Tuy nhiên, Putin thiếu phương tiện để đạt được các mục tiêu của mình. Nga thường không đủ mạnh để áp đặt ý chí của mình lên người khác, cũng không đủ sức hấp dẫn để trở thành một đối tác được lựa chọn. Phạm vi ảnh hưởng của quốc gia này phần lớn chỉ là hư cấu. Các nước láng giềng của Nga không sẵn lòng chọn Nga làm đối tác độc quyền – nếu có. Nga cũng thiếu sức mạnh quân sự để kiểm soát người khác bằng vũ lực. Nga sẽ mất hơn 100 năm để chiếm được 80% diện tích còn lại của Ukraine với tốc độ tiến công hiện tại, giả sử rằng Nga có thể duy trì tổn thất nhân sự lớn vô thời hạn. Các quốc gia thuộc Liên Xô cũ khác, như Moldova, đã chống lại các nỗ lực thống trị của Điện Kremlin.
Điện Kremlin sử dụng chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức để thu hẹp khoảng cách giữa các mục tiêu và phương tiện của mình. Nỗ lực chính của Nga là làm cho thế giới chấp nhận, thay vì phản đối, những luận điểm và hành động của Nga. Nga sẽ có cơ hội tốt hơn để khuất phục Ukraine nếu Điện Kremlin thành công trong việc khiến thế giới chấp nhận tiền đề sai lầm rằng chiến thắng của Nga là không thể tránh khỏi và viện trợ liên tục của phương Tây cho Ukraine là vô ích. Nga sẽ có cơ hội tốt hơn để áp đặt ý chí của mình lên người khác nếu Điện Kremlin thành công trong việc khiến thế giới chấp nhận tiền đề sai lầm rằng Nga đơn giản là xứng đáng với phạm vi ảnh hưởng của mình.
Điện Kremlin cũng đã cố gắng miêu tả Nga là chính nghĩa để hạn chế sự kháng cự đối với các hành động của Nga. Họ đầu tư rất nhiều công sức để bác bỏ và che giấu những hành động tàn bạo của mình.
Chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức của Nga cũng là nhằm che giấu những điểm yếu trong khi làm mất uy tín các mục tiêu của Nga. Trái ngược với cách Điện Kremlin miêu tả Putin là một nhà lãnh đạo chiến tranh hiệu quả, trên thực tế, Putin đã thất bại trong việc đạt được gần như tất cả các mục tiêu quân sự đã đặt ra sau hơn ba năm chiến tranh – mặc dù ước tính có 1 triệu người Nga đã thiệt mạng hoặc bị thương trong cuộc xung đột. Điện Kremlin đã hạ thấp những thành công của Ukraine, chẳng hạn như việc giải phóng các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, cũng như những thất bại của Nga, chẳng hạn như việc không thể bảo vệ biên giới quốc tế của mình trước cuộc xâm nhập của Ukraine vào tỉnh Kursk.
Chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức của Nga có trước thời Putin; trên thực tế, nó đã kéo dài hàng thập kỷ. Chiến lược này bắt nguồn từ các khái niệm của Liên Xô về “kiểm soát phản xạ”. Nhà toán học và tâm lý học Liên Xô Vladimir Lefebvre đã định nghĩa thuật ngữ này vào năm 1967 là một quá trình chuyển giao cơ sở để ra quyết định từ đối thủ này sang đối thủ khác – nói cách khác, cố gắng thay đổi quá trình lý luận của mọi người để buộc họ đi đến những kết luận, trong trường hợp này, phù hợp với Nga và hành động dựa trên những kết luận này theo những cách thúc đẩy mục tiêu của Nga.
Chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức của Nga liên quan đến việc tái chế các chiến lược và công cụ truyền thông của Liên Xô. Phô trương sức mạnh thông thường của mình – vũ khí hạt nhân, hạm đội và hệ thống tên lửa – là một chiến thuật mà Liên Xô thường xuyên sử dụng trong các thông điệp chiến lược của họ chống lại phương Tây. Điện Kremlin đã đầu tư vào việc mở rộng phạm vi tiếp cận và khả năng của hãng thông tấn nhà nước TASS (được thành lập với tên gọi Thông tấn xã Liên Xô) vào năm 2013 và 2014. TASS là một nguồn chính của tuyên truyền trong nước và nước ngoài của Liên Xô và đã có mặt ở 116 quốc gia trong thời kỳ Liên Xô cai trị.
Điện Kremlin tăng cường các nỗ lực chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức bên ngoài của mình sau một loạt các cuộc biểu tình phần lớn ôn hòa chống lại các chế độ tham nhũng ở các quốc gia thuộc Liên Xô cũ, bao gồm Cách mạng Hoa hồng năm 2003 của Gruzia và Cách mạng Cam năm 2004 của Ukraine. Sự nỗ lực của các nước láng giềng Nga hướng tới một chính phủ minh bạch, theo kiểu phương Tây đã đe dọa mục tiêu của Nga nhằm kiểm soát các quốc gia đó, và Putin coi sự phát triển này là mối đe dọa đối với chế độ của ông. Putin đã nhấn mạnh trong nhiều năm rằng Điện Kremlin “nên làm mọi thứ cần thiết để không có gì tương tự xảy ra ở Nga”, và Điện Kremlin đã phát động một loạt các hoạt động thông tin để ngăn chặn và đảo ngược sự mất ảnh hưởng của Nga ở Ukraine và các quốc gia thuộc Liên Xô cũ khác.
Nga bắt đầu gieo rắc các thông điệp về ly khai ở Ukraine ngay từ năm 2004. Một thập kỷ sau, vào năm 2014, những thông điệp này đã được sử dụng làm nền tảng cho hoạt động hỗn hợp của Nga nhằm chiếm giữ các khu vực phía đông và phía nam của Ukraine, và sau đó là cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022.
Điện Kremlin đã ưu tiên mở rộng tập đoàn truyền thông của mình trên toàn cầu. Tài liệu Khái niệm Chính sách Đối ngoại năm 2016 đã nêu “tăng cường vị thế của truyền thông Nga trong không gian thông tin toàn cầu” là một trong những ưu tiên của nước này. Trong cùng thập kỷ, các tổ chức truyền thông do Điện Kremlin kiểm soát RT, TASS và Sputnik đã phát động một nỗ lực phối hợp để hình thành quan hệ đối tác với các phương tiện truyền thông nước ngoài. Điện Kremlin cũng đã đầu tư vào một thế hệ các nhà báo ủng hộ Nga thông qua các chương trình đào tạo.
Một số nhà phân tích quân sự Nga thậm chí còn cho rằng mọi hoạt động, kể cả tấn công quân sự, đều phải nhằm đạt được hiệu quả về mặt thông tin. Học thuyết An ninh Thông tin năm 2016 của Nga kêu gọi một chính sách thông tin độc lập của Nga, quản lý phân đoạn internet Nga, và loại bỏ sự phụ thuộc của Nga vào các công nghệ thông tin nước ngoài. Quốc gia này đã thành lập Cục Chính trị-Quân sự vào năm 2018 để truyền bá hệ tư tưởng của Điện Kremlin trong các lực lượng vũ trang Nga. Liên Xô cũng tương tự đã tích hợp các sĩ quan chính trị vào quân đội của mình để đảm bảo sự phù hợp của quân đội với hệ tư tưởng và mục tiêu của Đảng Cộng sản.
Putin đã dựa vào khả năng này không chỉ để gây chiến mà còn để cai trị. Trong những ngày đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống của ông, các cơ quan an ninh Nga đã đột kích một đài truyền hình độc lập lớn. Đến năm 2003, Putin đã thiết lập sự kiểm soát của nhà nước đối với truyền thông Nga. Hằng năm kể từ năm 2000, Điện Kremlin đã giới thiệu các hình thức kiểm soát thông tin mới, và Putin đã mở rộng chế độ kiểm duyệt của mình kể từ khi phát động cuộc xâm lược toàn diện Ukraine. Vào tháng 4, nhà nước đã kết án một thiếu niên Nga gần ba năm tù vì sử dụng thơ Ukraine thế kỷ 19 để phản đối cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine. Nỗ lực của Điện Kremlin nhằm tạo ra một nền tảng nhắn tin tức thời quốc gia nằm trong số những nỗ lực mới nhất của họ nhằm mở rộng việc giám sát các thông tin liên lạc trong nước.
Tất cả những điều này đều hiệu quả – nhưng chỉ đến một mức độ nhất định. Chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức đã cho phép Nga đạt được một số thành tựu mà sẽ không thể đạt được chỉ với các lực lượng thông thường. Bối cảnh thông tin của sự lo lắng leo thang do Điện Kremlin gây ra đã định hình các quyết định của phương Tây về việc cung cấp viện trợ quân sự cho Ukraine, dẫn đến những cơ hội bị bỏ lỡ cho Ukraine và những lợi thế trên chiến trường cho Nga.
Tuy nhiên, Điện Kremlin phụ thuộc quá mức vào chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức. Nó cũng dễ bị tổn thương bởi những thực tế làm suy yếu câu chuyện về một nước Nga hùng cường và một Putin mạnh mẽ – một trong những điểm yếu lớn chưa được khai thác của Nga.
Chìa khóa để phòng thủ chống lại chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức của Nga là làm điều đó ở cấp độ lý luận chiến lược trong khi chống lại sự thôi thúc đuổi theo các nỗ lực thông tin sai lệch chiến thuật của Nga. Mỹ nên hiểu những tiền đề nào mà Điện Kremlin muốn họ tin, những quyết định nào của Washington mà nó đang cố gắng định hình, và để hỗ trợ những mục tiêu nào – và sau đó nên từ chối những tiền đề mà Điện Kremlin đang cố gắng gieo vào. Ví dụ, Mỹ có cơ hội phá bỏ ý niệm rằng Nga có quyền đối với phạm vi ảnh hưởng mà họ tuyên bố, hoặc tuyên bố rằng Nga sẽ không thể tránh khỏi chiến thắng về mặt quân sự ở Ukraine.
Hành động thường là cách hiệu quả nhất để vô hiệu hóa chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức. Chính các cuộc tấn công bằng drone và tên lửa thành công của Ukraine nhằm vào Hạm đội Biển Đen của Nga đã đánh bại nỗ lực của Nga nhằm tạo ra nhận thức sai lầm rằng Ukraine đang phá hoại an ninh lương thực toàn cầu. Hành động quân sự của Ukraine đã ngăn chặn việc Nga áp đặt phong tỏa trên thực tế, nhờ đó hoạt động thương mại ngũ cốc qua Biển Đen đã được nối lại.
Mặc dù các thông điệp cụ thể của Nga có thể thay đổi, nhưng các tiền đề lớn hơn mà Điện Kremlin đang cố gắng thiết lập thông qua các thông điệp này không thay đổi; cũng như các mục tiêu tổng thể mà chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức này hỗ trợ không thay đổi. Điều này mang lại cơ hội để nhận thức tình huống một cách có hệ thống để giám sát, dự báo và vô hiệu hóa chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức của Nga.
Sự phụ thuộc quá mức của Nga vào khả năng này đã làm suy yếu sức mạnh thực sự của đất nước và mang lại sự hủy diệt cho xã hội của họ – thiệt hại mà Nga sẽ phải mất nhiều thế hệ để phục hồi, nếu có thể phục hồi. Phương Tây sẽ được phục vụ tốt nhất bằng cách vô hiệu hóa các nỗ lực chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức của Nga (và Iran, Triều Tiên, và Trung Quốc) bằng cách tiết lộ chúng, nỗ lực bác bỏ các tiền đề sai lầm mà chúng tìm cách tạo ra, và tập trung vào thế giới thực, thay vì hoạt động trong thực tế nhân tạo mà các nỗ lực chiến tranh chiếm lĩnh nhận thức tìm cách tạo ra.
Nataliya Bugayova là nghiên cứu viên không thường trú về Nga tại Viện Nghiên cứu Chiến tranh.