Những sai lầm khiến Mỹ thua trong cuộc chiến drone

Nguồn: Jacquelyn Schneider và Julia Macdonald, How to Lose the Drone War”, Foreign Affairs, 31/07/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Chỉ mới mười năm trước, Mỹ là nước đi đầu trong đổi mới công nghệ drone, sử dụng các máy bay Predator và Reaper để nhắm mục tiêu và tiêu diệt khủng bố ở các quốc gia xa xôi. Nhưng như Israel, Nga và Ukraine đã thể hiện gần đây trong các chiến dịch ấn tượng, một cuộc cách mạng drone khác đã bắt đầu. Nếu trước đây, drone đắt đỏ và được điều khiển từ xa cho các cuộc tấn công có mục tiêu và giám sát chiến lược, thì giờ đây chúng có thể được mua với giá chỉ vài trăm đô la và thực hiện vô số nhiệm vụ, từ trinh sát chiến trường đến vận chuyển máu và thuốc men cho binh lính bị thương ở tiền tuyến.

Quân đội trên khắp thế giới đang thử nghiệm thế hệ drone mới này trong mọi khía cạnh của chiến đấu. Chẳng hạn, Israel và Ukraine đã sử dụng drone góc nhìn thứ nhất để tấn công sâu vào lãnh thổ đối phương. Các đợt tấn công bằng drone một chiều, tên lửa và bom dẫn đường của Nga đã nhắm vào các cơ sở điện và sản xuất của Ukraine. Trên tiền tuyến ở Ukraine, cả Moscow và Kyiv đều sử dụng drone nhỏ cũng như đạn tuần kích để tiêu diệt binh lính, xe tăng và thiết bị hỗ trợ, đồng thời dựa vào chính các phương tiện bay không người lái này để tiếp tế, phân loại thương vong và xác định kẻ thù đang tiếp cận. Những drone này không còn được vận hành từ xa mà được triển khai ngay tại các chiến hào hoặc bí mật thâm nhập sâu vào lãnh thổ đối phương.

Mỹ phần lớn đã bỏ lỡ cuộc cách mạng này trong công nghệ quân sự. Mặc dù Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth đã hứa sẽ “giải phóng sức mạnh thống trị drone của Mỹ,” cho đến nay kho drone của Mỹ vẫn bị chi phối bởi các hệ thống lớn hơn, đắt tiền hơn mà nước này đã tiên phong phát triển một thập kỷ trước. Các chương trình drone mới như Máy bay chiến đấu hiệp đồng của Không quân (Collaborative Combat Aircraft – CCA) hay Vũ khí tấn công và theo dõi tầm thấp của Lục quân (Low Altitude Stalking and Strike Ordnance) vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm và còn lâu mới có giá rẻ. CCA của Không quân ước tính có giá từ 15 đến 20 triệu USD mỗi chiếc; drone nhỏ hơn nhiều của Lục quân vẫn sẽ có giá từ 70.000 đến 170.000 USD. Ngay cả khi quân đội mua nhiều drone hơn kế hoạch hiện tại, không rõ liệu các công ty của Mỹ có thể sản xuất gần bằng khoảng 200.000 drone mà Ukraine đã sử dụng hàng tháng hay không.

Để tận dụng cuộc cách mạng drone, Mỹ sẽ không chỉ cần tập trung vào việc xây dựng năng lực—nhiều kinh phí hơn, sản xuất nhiều hơn, mua sắm nhanh hơn. Các nhà lãnh đạo dân sự và quốc phòng của nước này sẽ phải đặt câu hỏi nền tảng hơn về những quan điểm đã định hình quân đội Mỹ và các chiến dịch của nước này trong một thời gian dài. Sự chậm trễ của Mỹ trong việc áp dụng thế hệ drone mới là kết quả của những niềm tin vững chắc mà nước này đã có được trong 60 năm chiến tranh vừa qua: rằng nước này có thể, và nên, tận dụng công nghệ điều khiển từ xa để giành chiến thắng trong các cuộc xung đột nhanh chóng từ xa. Mỹ tin rằng họ có thể dựa vào công nghệ drone tương đối đắt tiền để cứu mạng phi công, cung cấp thông tin tình báo theo thời gian thực trực tiếp cho những người ra quyết định và cho phép nhắm mục tiêu chính xác.

Hiện nay, các nhà lãnh đạo Mỹ đang chịu áp lực phải thích nghi với một phương thức chiến tranh mới đang nổi lên trong các cuộc xung đột ở châu Âu và Trung Đông. Việc các nước khác dùng drone đang thay đổi hoàn toàn cách thức chiến đấu, và điều này có nghĩa là những chiến dịch với tổn thất thấp mà lực lượng drone của Mỹ vốn được tạo ra sẽ không còn phổ biến nữa. Tuy nhiên, trước khi vội vàng đầu tư vào một làn sóng công nghệ mới, các nhà hoạch định quốc phòng Mỹ sẽ cần xem xét lại những niềm tin và giả định cơ bản đã định hướng việc mua sắm của họ trong nửa thế kỷ qua. Họ sẽ phải xem xét lại sự chấp nhận thương vong của công chúng Mỹ, đánh giá lại các quy trình mua sắm đã có từ lâu, và đối mặt với xu hướng của các quân chủng khác nhau trong việc thúc đẩy các hệ thống lớn hơn, đắt tiền hơn. Đầu tiên và quan trọng nhất, các nhà lãnh đạo Mỹ sẽ cần đưa ra một lý thuyết chiến thắng mới xem xét cách công nghệ drone có thể giúp Mỹ đạt được thành công chiến lược.

Hỗ trợ kỹ thuật

Quân đội Mỹ hiện đại từ lâu đã tìm cách phát triển công nghệ để làm cho các cuộc chiến tranh chính xác hơn, hiệu quả hơn và ít rủi ro hơn—cho cả các nhà lãnh đạo Mỹ và quân đội mà họ gửi đi chiến đấu. Ngay từ năm 1965, Tổng thống Lyndon Johnson đã nói với Bộ trưởng Quốc phòng của mình, Robert McNamara, rằng hãy tìm một giải pháp công nghệ cho các nhiệm vụ trinh sát nguy hiểm trong cuộc chiến tranh Việt Nam ngày càng không được lòng dân: “Bob, tôi không nghĩ có cách nào khác, thông qua các máy bay nhỏ hoặc trực thăng của anh… anh có thể phát hiện những người này rồi báo về để máy bay đến ném bom tan nát chúng được không?”

Với sự ra đời của bộ vi xử lý vào năm 1971, quá trình đổi mới drone của Mỹ đã bùng nổ, và khả năng drone quan trọng đầu tiên đã được tích hợp vào chiến đấu của Mỹ. Các drone Lightning Bug và sau đó là Buffalo Hunter đã thực hiện hơn 4.000 phi vụ ở Việt Nam, thực hiện những nhiệm vụ mà quân đội gọi là “nhàm chán, nguy hiểm và bẩn thỉu” mà trước đây chỉ có phi công thật mới có thể thực hiện được. Drone đóng vai trò là mồi nhử cho các địa điểm phòng không, chụp ảnh tên lửa đất đối không và trại tù của Bắc Việt, thực hiện trinh sát trong điều kiện thời tiết xấu, và thả truyền đơn.

Drone không làm thay đổi căn bản động lực của Chiến tranh Việt Nam. Nhưng chúng đã thu hút trí tưởng tượng của quân đội Mỹ bằng cách chứng minh cách công nghệ không người lái có thể giảm thiểu rủi ro cho con người. Tiềm năng này trở nên đặc biệt quan trọng sau khi quân đội dừng chế độ quân dịch bắt buộc và chuyển sang lực lượng tình nguyện hoàn toàn vào năm 1973. Việc chấm dứt chế độ nghĩa vụ quân sự đã ngăn cản các đời tổng thống sau này triển khai một lượng lớn quân đội, đồng thời buộc các lực lượng vũ trang phải thiết kế những chiến lược quân sự mới dựa trên quy mô quân số mà họ tin rằng có thể tuyển mộ được. Những thay đổi địa chính trị cũng thúc đẩy sự quan tâm ngày càng tăng đối với các công nghệ chiến trường mới: vào đầu những năm 1980, Mỹ phải đối mặt với một quân đội Liên Xô vượt trội về số lượng. Quân đội Mỹ cần tìm cách vượt trội Liên Xô về chất lượng để bù đắp cho lợi thế về quân số của đối phương.

Các nhà lãnh đạo Mỹ tập trung vào việc cho phép quân đội chiến đấu với một lực lượng nhỏ hơn, được huấn luyện tốt hơn, vận hành các công nghệ dẫn đường chính xác mới. Các học thuyết như chiến tranh Không – Lục – chiến lược được lục quân và không quân cùng áp dụng, kêu gọi các đòn tấn công tầm xa kết hợp với các hoạt động cơ động cao của lực lượng mặt đất – đã tận dụng những tiến bộ mới trong vi xử lý để trinh sát và nhắm mục tiêu kẻ thù từ khoảng cách xa hơn. Trong khi đó, việc Tổng thống Ronald Reagan tăng mạnh ngân sách quốc phòng Mỹ đã cho phép tài trợ chảy vào vệ tinh, radar và “vũ khí thông minh” mới với hệ thống dẫn đường tốt hơn—tất cả các công nghệ này sẽ trở thành nền tảng của kho drone của Mỹ.

Cuộc tìm kiếm drone của Washington trở nên cấp bách hơn sau vụ đánh bom doanh trại lính thủy đánh bộ và vụ bắn hạ phi công hải quân ở Lebanon năm 1983. Hải quân đã đầu tư khoảng 90 triệu USD vào một hệ thống đã được Israel chứng minh và mua 72 phương tiện bay không người lái Pioneer. Trong khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Caspar Weinberger đã ban hành một học thuyết quân sự mới nêu rõ rằng quân đội không nên được triển khai trừ khi là phương sách cuối cùng. Các nhà chiến lược tin rằng drone, chẳng hạn như Pioneer, có thể thay thế các nhiệm vụ trinh sát trên không có người lái đầy rủi ro. Năm 1985, Kelly Burke, người đứng đầu nghiên cứu và phát triển của Không quân từ năm 1979 đến 1982, đã giải thích lý do với The Washington Post: “Có thể có máy bay rẻ tiền, nhưng không có phi công Mỹ nào rẻ tiền cả”.

Việc ban hành học thuyết Weinberger trùng với buổi bình minh của thời đại thông tin. Mỹ từ lâu đã muốn tránh các cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài, và những tiến bộ nhanh chóng trong công nghệ kỹ thuật số cuối cùng dường như đã biến mục tiêu đó thành hiện thực. Trong lòng Lầu Năm Góc, một số nhà chiến lược trong Văn phòng Đánh giá mạng (Office of Net Assessment – ONA) tập trung vào việc các hệ thống mới như drone có thể cách mạng hóa hoàn toàn chiến lược quân sự bằng cách phát hiện và nhắm mục tiêu kẻ thù từ xa để giành chiến thắng nhanh chóng và ít rủi ro cho quân đội Mỹ. Trong một báo cáo đáng kinh ngạc về tính dự báo được viết vào năm 1986, một nhóm chuyên gia chiến lược của ONA đã hình dung một không gian chiến trường tràn ngập các cảm biến trinh sát bay và ‘mìn bay’ triển khai theo đàn, nơi pháo binh và drone sẽ dựa vào các cảm biến không người lái để tự động chọn mục tiêu.

Lợi nhuận không rủi ro

Tuy nhiên, hai mục tiêu này—giảm thiểu rủi ro cho con người và tối ưu hóa hiệu quả chiến trường—chưa bao giờ hoàn toàn ăn khớp. Kể từ Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, chiến lược drone của Mỹ đã được đặc trưng bởi sự căng thẳng giữa việc tránh rủi ro và mong muốn giành chiến thắng nhanh chóng, quyết định, dựa trên công nghệ. Trong Chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ đã cố gắng cân bằng việc giảm thiểu rủi ro và tối đa hóa hiệu quả bằng cách theo đuổi một chiến lược kết hợp: Không quân đã khởi động cuộc chiến với một chiến dịch phủ đầu chớp nhoáng được hỗ trợ bởi bom chính xác và tên lửa tầm xa trong khi lực lượng mặt đất tiến hành một chiến dịch quyết định đã tàn phá quân đội Iraq. Thành công của cuộc chiến cho thấy một phương thức chiến tranh mới của Mỹ với các chiến dịch nhanh chóng, mang tính quyết định và ít thương vong.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, Quốc hội và chính quyền Clinton đã cắt giảm ngân sách của Bộ Quốc phòng. Các quân chủng đã đấu tranh để ưu tiên các chương trình vũ khí hiện có yêu thích của họ, dẫn đến việc đầu tư vào các nền tảng có người lái lớn như tàu sân bay, máy bay chiến đấu và xe tăng thay vì các nền tảng không người lái hoặc đạn dược nhỏ hơn. Ngành công nghiệp quốc phòng đã hợp nhất, khiến các công ty còn lại có ít ngân sách và ham muốn dành cho nghiên cứu và phát triển ngoài các yêu cầu đã nêu của Bộ Quốc phòng.

Bất chấp những hạn chế này, trong suốt những năm 1990, chính quyền Clinton đã xây dựng được một kho vũ khí gồm máy bay tàng hình, tên lửa hành trình tầm xa và bom được trang bị GPS. Đây là những năm chiến tranh trên không của các cuộc can thiệp quân sự rủi ro thấp, công nghệ cao. Bộ Quốc phòng của Clinton nhận thấy tiềm năng to lớn ở drone, ngay cả khi chúng không nằm trong danh sách ưu tiên cao của bất kỳ quân chủng nào. Ngay từ đầu nhiệm kỳ với tư cách là Thứ trưởng Quốc phòng, John Deutch đã thành lập một tổ chức chung, Văn phòng Trinh sát Hàng không Quốc phòng, để khuyến khích quân đội áp dụng công nghệ drone. Như văn phòng đã kết luận vào năm 1994, “UAV là một lựa chọn khả thi khi các quân chủng đối phó với nhiều thách thức của việc thu nhỏ quy mô”. Các drone Predator đầu tiên, do một công ty năng lượng tên là General Atomics phát minh mà không có người ủng hộ rõ ràng trong các quân chủng, đã bay qua Nam Tư cũ vào mùa hè năm 1995.

Cùng mùa hè năm đó, phi công F-16 Scott O’Grady bị bắn hạ trên lãnh thổ Bosnia-Serbia. Đây là một sự xấu hổ đối với quân đội Mỹ và đã ảnh hưởng đến Tham mưu trưởng Không quân Ronald Fogleman trong việc đưa Predator vào sử dụng rộng rãi hơn; ông đã thành lập đơn vị drone đầu tiên của Không quân vào tháng 7 năm 1995. Quốc hội đã ủng hộ những nỗ lực của Fogleman. Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện, John Warner, giải thích: “Theo tôi, đất nước này sẽ không bao giờ cho phép các lực lượng vũ trang tham gia vào các cuộc xung đột gây ra mức độ thương vong mà chúng ta đã thấy trong lịch sử nữa.” Điều đó có nghĩa là, ông kết luận, một bước tiến không thể tránh khỏi đối với các công nghệ không người lái.

Mục tiêu hẹp

Sau các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9, drone Predator và Reaper đã trở thành một đặc điểm nổi bật của chiến lược quân sự Mỹ. Trong hai thập kỷ, Mỹ đã mua hơn 500 máy bay Predator và Reaper (với chi phí hàng chục tỷ đô la) và sử dụng chúng để thực hiện hàng nghìn cuộc tấn công bằng drone ở Afghanistan, Iraq, Libya, Pakistan, Syria, Yemen và một loạt các quốc gia khác. Các chỉ huy ngồi trong các trung tâm điều hành có thể theo dõi mục tiêu theo thời gian thực 24/7.

Tuy nhiên, việc sử dụng drone vẫn gây tranh cãi. Các hệ thống này không hề rẻ; chúng cũng không linh hoạt hay bền bỉ. Những người lính trên chiến trường không hoàn toàn hài lòng. Drone bị nhiễu trong thời tiết xấu và có độ trễ truyền dữ liệu, và gần như hoàn toàn do Không quân điều hành; bộ binh phàn nàn rằng các phi công Không quân phụ trách các phi đội drone không được huấn luyện đầy đủ cho các nhiệm vụ hỗ trợ mặt đất. Và nhiều người đã đặt câu hỏi về việc sử dụng drone rộng rãi để thay thế hoàn toàn binh sĩ con người. Ở Afghanistan và Iraq, Mỹ được cho là đang chiến đấu vì trái tim và khối óc của người dân địa phương, nhưng mục tiêu này đôi khi dường như mâu thuẫn với việc ném bom họ từ một khoảng cách an toàn, vô cảm.

Quân chủng duy nhất thực sự đầu tư vào drone trong cuộc “chiến tranh chống khủng bố” toàn cầu là Không quân. Mặc dù drone có khả năng đe dọa vai trò lịch sử của phi công trong quân chủng, nhưng mong muốn kiểm soát các nhiệm vụ trên không của Không quân đã khiến họ đi tiên phong trong việc áp dụng công nghệ drone. Thay vì được gắn vào các đơn vị chiến đấu mặt đất, Predator và Reaper được các phi đội Không quân điều hành theo mô hình các đơn vị chiến đấu cơ. Thường thì, các cựu phi công chiến đấu cơ đã điều khiển drone và sử dụng các quy trình giao nhiệm vụ máy bay mô phỏng những quy trình được thiết kế cho máy bay có người lái. Không có gì ngạc nhiên khi việc Mỹ sử dụng drone đã sao chép chặt chẽ các nhiệm vụ cốt lõi của không quân như ném bom chiến lược và trinh sát. Lục quân đã chấp nhận sự độc quyền của Không quân đối với drone, chỉ đầu tư tiết kiệm vào các hệ thống nhỏ hơn, trong khi Hải quân—vẫn tập trung vào các nền tảng lớn như tàu sân bay là cốt lõi bản sắc của họ—ít quan tâm đến cuộc cách mạng không người lái.

Cuối cùng, việc Mỹ quá tập trung vào sử dụng công nghệ tiên tiến để hạn chế tổn thất cho binh lính cuối cùng đã thúc đẩy quân đội nước này mua và triển khai một loại drone đặc thù: loại có khả năng điều khiển từ xa, có thể theo dõi mục tiêu trong thời gian dài và được triển khai ở những vùng trời nguy hiểm. Trọng tâm mua sắm đó nảy sinh từ hàng thập kỷ quyết định—về cách Mỹ muốn chiến đấu sau Chiến tranh Việt Nam, về những bài học cần rút ra từ Chiến tranh vùng Vịnh và về các khoản đầu tư quốc phòng trong giai đoạn Mỹ đơn phương. Hai thập kỷ chiến tranh ở Afghanistan và Iraq đã củng cố những lựa chọn đó.

Cuộc chiến ở Ukraine đã thách thức thế bố trí lực lượng đó. Do đó, Mỹ hiện đang gấp rút đầu tư vào nhiều loại drone hơn. Mỹ đang trao hợp đồng cho các công ty quốc phòng mới và tổ chức diễn tập các nhiệm vụ drone mới. Bộ trưởng Quốc phòng Hegseth gần đây đã chỉ đạo các đơn vị mua và thử nghiệm drone có sẵn trên thị trường. Tuy nhiên, các quyết định này đều là những phản ứng nhất thời, chỉ chạy theo cách drone được triển khai ở nước ngoài, chứ không phải là kết quả của một kế hoạch chiến lược rõ ràng về vai trò của chúng trong các cuộc chiến tranh sau này của Mỹ.

Trở lại với những điều cơ bản

Nếu Mỹ muốn chiến đấu và giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh tiêu hao—loại hình chiến tranh mà Ukraine hiện đang sử dụng drone với hiệu quả lớn—nước này sẽ cần nhiều drone giá thấp hơn được gắn vào các đơn vị chiến đấu có thể nhanh chóng thích nghi để chống lại các nỗ lực chống drone. Nhưng nước này không thể chỉ đơn giản sao chép các chiến lược drone của Ukraine (hoặc Israel). Trước khi vội vàng mua sắm, các nhà chiến lược quốc phòng Mỹ cần phải đưa ra một học thuyết chiến thắng mới, xem xét lại những niềm tin và giả định đã làm nền tảng cho 50 năm mua sắm công nghệ vừa qua.

Trong nửa thế kỷ, Mỹ đã xây dựng một quân đội dựa trên niềm tin rằng công chúng Mỹ sẽ không hy sinh mạng sống của mình nhưng sẵn sàng chi tiền của mình. Khi thâm hụt ngân sách tăng vọt và cử tri Mỹ cho thấy sự gia tăng mong muốn trừng phạt các tổng thống vì lạm phát và các chương trình lãng phí của chính phủ, các nhà lãnh đạo Mỹ không còn có thể đơn giản cho rằng họ có thể đổ tiền vào các công nghệ đắt tiền để giảm thiểu rủi ro chính trị của mình. Đồng thời, niềm tin đã thống trị những năm 1980 và 1990—rằng công nghệ không người lái sẽ tạo ra các cuộc chiến tranh nhanh hơn được chiến đấu từ xa hơn—đang bị thách thức. Việc sử dụng drone ở các chiến trường châu Âu và Trung Đông đang cho phép xung đột ở tầm gần hơn: mìn, chiến tranh chiến hào và nhắm mục tiêu vào dân thường. Không có điều nào trong số này là cốt lõi của chiến lược Mỹ kể từ thời Chiến tranh Việt Nam.

Chính quyền Trump phải cân nhắc cẩn thận liệu quân đội Mỹ có nên áp dụng công nghệ drone cho phép các loại hình chiến tranh này trong bối cảnh xem xét rộng hơn chiến lược quân sự của Mỹ. Chỉ khi đó, nước này mới có thể điều chỉnh ngân sách quốc phòng Mỹ (và các khoản đầu tư vào drone) theo các ưu tiên chiến lược rõ ràng. Trong quá khứ, các bộ trưởng quốc phòng đã thành công trong việc điều hướng các cuộc chiến ngân sách giữa các quân chủng bằng cách chuyển các chương trình ra khỏi các quân chủng riêng lẻ hoặc trực tiếp tiếp quản chúng, sa thải các tham mưu trưởng quân chủng và vận động Quốc hội phân bổ quỹ cho các chương trình cụ thể. Quốc hội không chỉ cần làm cho quy trình mua sắm quân sự nhanh hơn và hiệu quả hơn; họ cũng cần cho phép đổi mới từ dưới lên nhiều hơn, cho phép các chỉ huy chiến đấu và các đơn vị nhỏ hơn mua sắm và quản lý các chương trình drone của riêng họ. Điều này sẽ đòi hỏi cải cách lập pháp đáng kể ở quy mô của Đạo luật Goldwater-Nichols năm 1986, đã tạo ra những thay đổi sâu rộng cho Bộ Quốc phòng. Việc làm mới chiến lược quốc phòng Mỹ cũng có thể đòi hỏi sự lãnh đạo kiên trì trong các lực lượng vũ trang, bao gồm việc bổ nhiệm các chỉ huy có nhiệm kỳ dài hơn so với thông lệ hiện nay.

Quân đội Mỹ đã bị quyến rũ bởi những thành công về mặt hoạt động và chiến thuật nhưng đã không duy trì được lợi thế chiến lược cần thiết để thành công trong các cuộc xung đột của thế kỷ 21. Nếu không đánh giá lại phương thức chiến tranh của Mỹ, không có số lượng drone mới nào có thể bảo vệ Mỹ chống lại những cuộc chiến mà nước này không muốn tham gia.

JACQUELYN SCHNEIDER hiện là Nghiên cứu viên tại Viện Hoover, Giám đốc Sáng kiến Diễn tập Chiến tranh và Mô phỏng Khủng hoảng, đồng thời là thành viên liên kết tại Trung tâm An ninh và Hợp tác Quốc tế của Đại học Stanford.

JULIA MACDONALD là Giám đốc Nghiên cứu và Giao lưu tại Quỹ Châu Á New Zealand, và là Nghiên cứu viên Cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược của Đại học Victoria Wellington.