Nguồn: Vitaliy Goncharuk, “Ukraine Isn’t the Model for Winning the Innovation War”, War on the Rocks, 12/08/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
Trong vài năm trở lại đây, các nhà quan sát phương Tây đã không ngừng ca ngợi những thành công của Ukraine trong việc đổi mới quốc phòng, từ AI đến drone, đến cơ chế phân quyền và một hệ sinh thái các công ty khởi nghiệp quốc phòng. Nhưng không phải mọi thứ ở Ukraine đều tốt đẹp.
Cho đến gần đây, việc công khai đặt câu hỏi về những thông tin này là rất khó do thiếu các số liệu thống kê công khai về chiến trường. Nhưng đến năm 2025, nhiều nhà quan sát thừa nhận rằng Nga có thể đã vượt qua Ukraine trong một số lĩnh vực ứng dụng đổi mới.
Điều này hiện đã được nhiều chuyên gia công khai thừa nhận, bao gồm cựu chỉ huy quân sự hàng đầu của Ukraine, Michael Kofman, và những người khác. Điều này tạo cơ hội cho một cuộc thảo luận cởi mở hơn về những phần nào trong kinh nghiệm thực tế của Ukraine thực sự hiệu quả và có thể áp dụng – và những phần nào không thể áp dụng – cho Mỹ và Tây Âu.
Tôi đã trực tiếp tham gia vào việc định hình các khái niệm cốt lõi của hệ sinh thái công nghệ Ukraine. Ví dụ, tôi là chủ tịch Ủy ban Phát triển AI từ năm 2019 đến 2023 và đã dẫn đầu trong việc phát triển lộ trình AI cho quốc phòng. Điều quan trọng là phải hiểu bối cảnh và lý do tại sao hệ sinh thái Ukraine lại phát triển theo cách đó trong điều kiện chiến tranh.
Có những vấn đề mang tính hệ thống và câu hỏi mở cần khiến cộng đồng chuyên gia phương Tây suy ngẫm. Cụ thể, liệu các mô hình và giải pháp công nghệ của Ukraine có thực sự phù hợp với cuộc cạnh tranh trong tương lai của Mỹ với Trung Quốc và Nga không? Hay chúng có thể hạn chế tiềm năng của ngành công nghiệp quốc phòng phương Tây? Có cần thiết phải xem xét kỹ lưỡng hơn các phát triển ở Nga và Trung Quốc kể từ năm 2022 không?
Mục tiêu của tôi ở đây không phải là chỉ trích hay “đánh giá sau trận đấu”, mà là xem xét kỹ hơn từ các góc độ khác nhau về các mô hình được phổ biến dựa trên kinh nghiệm của Ukraine. Thật vậy, ở nhiều khía cạnh (không phải tất cả) Ukraine, đất nước tôi sinh ra, đã cố gắng hết sức với những gì mình có. Nhưng điều quan trọng là phải xem xét một cách nghiêm túc, hoặc ít nhất là đặt câu hỏi, liệu kinh nghiệm đổi mới quốc phòng của Ukraine có thực sự cung cấp một mô hình hữu ích cho các nước phương Tây trong một cuộc xung đột trong tương lai chống lại các cường quốc lớn như Trung Quốc hoặc Nga hay không.
Phi tập trung hóa không phải lúc nào cũng là giải pháp tối ưu
Khi giai đoạn tích cực của cuộc chiến bắt đầu, Ukraine xếp thứ 122 trên 180 quốc gia trong Chỉ số Nhận thức Tham nhũng. Quy trình cấp phép drone tiêu chuẩn mất một năm. Ngân sách nhà nước năm 2022 bị cắt giảm, trong khi ngân sách xây dựng đường bộ năm 2022 tăng gấp ba lần.
Với sự khởi đầu của giai đoạn leo thang của cuộc chiến, hệ thống mua sắm nhà nước đã bị tê liệt hoàn toàn. Người ta có thể tranh luận dài dòng với các quan chức chính phủ rằng hệ thống không bị tê liệt – nhưng cá nhân tôi đã phải mua mũ bảo hiểm, phương tiện, v.v., cho chiến hữu trong tuần đầu tiên chiến đấu. Trong tuần thứ hai, tôi phải mua đồ lót và tất cho cả một tiểu đoàn gần Kyiv. Lô hàng này được giao qua đường bưu điện thương mại – Nova Poshta – đến chi nhánh không bị chiếm đóng gần nhất, và tiểu đoàn đã nhận được một tuần sau đó.
Nhìn một cách tổng thể, một điều rất bất thường đã xảy ra: do sự tê liệt của hệ thống mua sắm nhà nước, các đơn vị quân đội đã được phép tự mua sắm mọi thứ họ cần. Đồng thời, nhiều quỹ từ thiện và nhà tài trợ tư nhân đã trở thành những nhân tố tích cực trong việc mua sắm quân sự, cung cấp đồng phục, thực phẩm và vũ khí trực tiếp cho các đơn vị. Để đáp ứng nhu cầu, các tình nguyện viên đã bắt đầu tạo ra các hệ thống mua sắm công nghệ thông tin tạm thời khi cuộc chiến mới chỉ được bốn tháng.
Tất cả những điều này đã dẫn đến việc phi quan liêu hóa hoàn toàn và phi tham nhũng một phần trong mua sắm, tạo ra một hiện tượng rất thú vị: Các đơn vị quân đội và các quỹ từ thiện đã trở thành những khách hàng ổn định và dễ dự đoán hơn nhà nước. Kết quả là, một số công ty công nghệ sản xuất drone đã phát triển trong các hệ sinh thái này, tái đầu tư lợi nhuận vào phát triển – theo ví dụ của Ukrspecsystems vào năm 2014 và 2015, ban đầu huy động vốn cho drone thông qua PeopleProject và trở thành những nhà lãnh đạo thị trường vào năm 2021.
Nghe có vẻ là một câu chuyện thành công? Có lẽ là vậy – nhưng đến năm 2025, hệ thống này đã bộc lộ những vấn đề hệ thống lớn: Khi các đơn vị quân đội bắt đầu tự mua sắm trang thiết bị với rất ít sự giám sát, tham nhũng đã lan rộng xuống tận cấp đơn vị.
Sự phân quyền như vậy có thể khiến nhà nước khó tập trung nguồn lực vào các phát triển đầy hứa hẹn hoặc đảm bảo sự tích hợp giữa các sản phẩm quân sự được mua lại bởi các đơn vị khác nhau. Tôi thậm chí còn không đề cập đến chi phí thực tế, khả năng tiết kiệm nhờ quy mô, hay tính tương thích giữa các hệ thống.
Trong tất cả các cuộc xung đột quân sự, cạnh tranh không chỉ diễn ra trên chiến trường mà còn trong các hệ thống hậu cần. Và hệ thống mua sắm thực sự phát triển ở Ukraine đã giải quyết những vấn đề rất khác so với những gì Mỹ phải đối mặt trong cạnh tranh với Trung Quốc và Nga. Một hệ thống phân quyền có thể tỏ ra kém hiệu quả hơn nhiều so với các hệ thống mua sắm tập trung – và Nga đã chứng minh điều này trên chiến trường vào năm 2025.
“Sở thú” các nền tảng công nghệ không thể mở rộng quy mô
Kể từ năm 2022, hệ thống mua sắm phân quyền của Ukraine đã thúc đẩy sự bùng nổ của các doanh nghiệp quốc phòng nhỏ. Hàng ngàn công ty bắt đầu sản xuất drone, linh kiện, phần mềm và cung cấp các dịch vụ cho tiền tuyến. Phong trào này đã trở nên lớn mạnh đến mức khó có thể làm ngơ. Nó thực sự tăng cường năng lực chiến đấu của Ukraine vào thời điểm quan trọng. Nhưng về chất lượng và tính bền vững, nó ngày càng được so sánh với “Đại nhảy vọt” của Trung Quốc vào những năm 1950, khi Đảng Cộng sản khuyến khích công dân nấu chảy thép trong các lò nung sau sân nhà.
Năm 2024, Bộ Chuyển đổi Kỹ thuật số chính thức đề xuất người dân lắp ráp drone tại nhà. Sau một làn sóng chỉ trích, ý tưởng này đã bị loại bỏ, nhưng việc công khai nó đã trở thành một dấu hiệu đáng lo ngại về chất lượng ra quyết định.
Đến năm 2025, rõ ràng là chỉ 20 đến 40% drone điều khiển từ xa góc nhìn thứ nhất thực sự tấn công đến mục tiêu của chúng. Kết quả là, chi phí thực sự để phá hủy một chiếc xe tăng cao hơn nhiều so với mức giá quảng cáo 500 USD mỗi drone. Sự chênh lệch này phần lớn là do khả năng tác chiến điện tử tiên tiến và có thể mở rộng nhanh chóng của Nga. Phía Ukraine đã không mấy nỗ lực để phát triển các hệ thống có khả năng né tránh sự can thiệp như vậy, hoặc dự đoán các mối đe dọa trong tương lai – chẳng hạn như drone dùng cáp quang hay khả năng điều hướng tự động trong môi trường không có GPS.
Vấn đề cốt lõi là thiếu cả chuyên môn của chính phủ và năng lực kỹ thuật. Phát triển các hệ thống như vậy đòi hỏi kiến thức sâu sắc về phần mềm, điện tử và kiến trúc hệ thống – nhưng hầu hết các công ty mới thành lập chỉ là “xưởng lắp ráp”, thiếu chiều sâu kỹ thuật để vượt ra ngoài việc lắp ráp cơ bản. Kết quả là, Ukraine đã không phản ứng hiệu quả với các mối đe dọa mới nổi: cụ thể là drone cáp quang tầm ngắn và drone tầm xa với điều hướng tự động.
Ngược lại, Nga được cho là đã áp dụng một cách tiếp cận tập trung hơn, dựa vào một nhóm các công ty quốc phòng lớn được lựa chọn trước để phát triển các công nghệ và nền tảng cốt lõi. Các công ty này tập trung vào một bộ hệ thống hạn chế – như drone Geran / Shahed – và tinh chỉnh chúng một cách có phương pháp bằng cách kết hợp các khả năng AI tiên tiến, các thành phần điện tử cải tiến và kiến trúc tiêu chuẩn hóa. Kết quả là, Nga đang từng bước xây dựng một hệ thống công nghệ quốc phòng ngày càng thống nhất và kiên cường hơn. Hệ thống này được thiết kế để phù hợp hơn cho việc sản xuất hàng loạt, cải tiến liên tục trong dài hạn, và duy trì chiến đấu trong điều kiện chiến tranh hiện đại.
Mô hình của Ukraine, mặt khác, đã tạo ra một “sở thú” các giải pháp – những hệ thống phân mảnh, thường không tương thích, thiếu các tiêu chuẩn hoặc kiến trúc chung. “Sở thú” này không thể mở rộng quy mô. Ngay trong nội bộ Ukraine, các cuộc thảo luận đang diễn ra về việc phải làm: hệ thống đang mất khả năng cạnh tranh và khó phát triển hơn nữa. Thật vậy, một số chỉ trích đến từ các nhà sản xuất lớn trong ngành muốn đẩy các công ty nhỏ – những công ty làm việc trực tiếp với quân đội – ra khỏi thị trường. Tuy nhiên, những nhà phê bình này có một quan điểm mang tính hệ thống: các nhóm công ty nhỏ hiếm khi đạt được năng lực kỹ thuật hệ thống phức tạp hoặc sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn cần thiết cho vũ khí tiên tiến. Kinh nghiệm chiến tranh của Ukraine, thật không may, cho đến nay đã chứng minh điều này.
Chắc chắn, sự phân quyền sản xuất đã đóng một vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của cuộc chiến. Nếu không có nó sẽ không thể thực hiện được nhiều điều. Kinh nghiệm đó là quý giá. Nhưng khi cuộc xung đột kéo dài và nhu cầu chất lượng tăng lên, ngày càng rõ ràng rằng các cách tiếp cận tập trung, có cấu trúc hơn có xu hướng vượt trội so với các cách tiếp cận phân quyền bằng cách không chỉ cung cấp kết quả mà còn cả khả năng dự đoán.
Kinh nghiệm của Ukraina có hữu ích cho phương Tây không? Có, nhưng chỉ ở một số khía cạnh cụ thể như kỹ thuật, phát minh, và sự linh hoạt của đội ngũ. Những điều này là quý giá, nhưng mô hình phân quyền tổng thể của Ukraine thì không. Bạn không thể mở rộng một “sở thú” các hệ thống rời rạc trong một cuộc chiến dài; chiến tranh hiện đại đòi hỏi các giải pháp có thể mở rộng quy mô.
Một ảo tưởng chiến lược?
Tính đến năm 2021, ngành quốc phòng của Ukraine đang ở trong tình trạng cực kỳ kém. Người chơi thống trị vẫn là tập đoàn nhà nước Ukroboronprom (được đổi tên thành Hệ thống Quốc phòng Ukraine), hợp nhất hơn 130 doanh nghiệp, hầu hết trong số đó được thành lập từ thời Liên Xô – bao gồm Antonov và một số nhà máy tham gia sản xuất vũ khí và sửa chữa thiết bị để xuất khẩu sang Châu Phi và Trung Đông.
Tuy nhiên, nhiệm vụ chính của Ukroboronprom trước năm 2022 không phải là sản xuất vũ khí hiện đại, mà là trải qua quá trình cổ phần hóa và triển khai các hệ thống quản trị doanh nghiệp.
Khu vực quốc phòng tư nhân vẫn rất hạn chế về cả quy mô và năng lực. Mặc dù cuộc xung đột vũ trang đang diễn ra với Nga từ năm 2014, nhưng không có sự xuất hiện của các trường kỹ thuật mới hoặc một số lượng đáng kể các doanh nghiệp cạnh tranh trong lĩnh vực này – ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ.
Đến đầu năm 2022, nguồn nhân lực duy nhất liên quan đến kỹ thuật bao gồm các chuyên gia từ các lĩnh vực phần mềm dịch vụ, công nghệ tài chính và công nghệ thông tin giải trí – những người đã làm việc cho xuất khẩu trước chiến tranh và là một phần của cộng đồng khởi nghiệp biết cách tổ chức các khoản tài trợ, các buổi thuyết trình và các quỹ nhỏ. Khi chiến tranh bắt đầu, họ chuyển sang những gì họ biết rõ nhất: Trong vài tháng sau ngày 24 tháng 2, các sự kiện, cuộc thi và vườn ươm khởi nghiệp quốc phòng bắt đầu xuất hiện.
Nhưng không có nghiên cứu có hệ thống, không có phân tích về sự phát triển công nghệ của đối phương, và không có sự trình bày rõ ràng về nhu cầu thực tế của tiền tuyến. Chẳng có chiến lược nào. Hầu hết các giải pháp được tài trợ hóa ra là những thử nghiệm không có bối cảnh – những phát kiến nhắm mắt bắn bừa.
Sáng kiến được công chúng biết đến nhiều nhất là Brave1, về cơ bản là một nhà tổ chức sự kiện và một mạng lưới cố vấn lỏng lẻo tài trợ cho các nhóm cá nhân. Nó cung cấp cơ hội kết nối và thuyết trình, nhưng không tiến hành phân tích sâu về xu hướng công nghệ của Nga, không lập kế hoạch kịch bản chặt chẽ và không phát triển thiết kế kiến trúc thống nhất. Nguồn tài trợ do nền tảng này cung cấp phần lớn mang tính biểu tượng so với quy mô của các thách thức: đến năm 2025, Brave1 đã giải ngân chỉ khoảng 8 triệu USD tiền tài trợ và giúp thu hút khoảng 25 triệu USD đầu tư tư nhân – tương đương với một vòng gọi vốn Series A cho một công ty khởi nghiệp ở Thung lũng Silicon.
Mô hình xuất hiện ở Ukraine là hệ quả của những nguồn lực – thời gian, con người và tiền bạc – có sẵn dưới cú sốc của chiến tranh. Nó không phải là kết quả của việc lập kế hoạch chiến lược; đúng hơn, đây là giải pháp mang tính đối phó.
Đối với các nhiệm vụ có độ phức tạp thấp – nơi cần nhanh chóng sản xuất hàng trăm giải pháp đơn giản – một mô hình như vậy có thể hữu ích. Nhưng trong cạnh tranh hệ thống dài hạn – Trung Quốc và Nga đối đầu với phương Tây – mô hình dựa trên khởi nghiệp không thể mở rộng quy mô, bởi vì mục tiêu của nó là tạo mẫu nhanh và giải quyết vấn đề, chứ không phải khả năng mở rộng.
Kinh nghiệm của Ukraine đã tiết lộ một điều quan trọng: bạn cần cơ sở hạ tầng cho phép phát triển, thử nghiệm và lặp lại sản phẩm nhanh chóng trong một vòng lặp duy nhất – cụ thể là với thử nghiệm được tiến hành trực tiếp trên chiến trường. Nhưng đó là một kết luận về tầm quan trọng của kỷ luật kỹ thuật và sản xuất – không phải là một trường hợp để áp dụng cách tiếp cận khởi nghiệp làm khuôn khổ cốt lõi cho việc phát triển năng lực.
Thách thức chính không phải là xây dựng một vòng lặp như vậy trong xung đột. Xung đột sẽ buộc nó phải xảy ra. Thách thức là làm thế nào để nó bền vững trong thời bình, khi không có sự cấp bách, nhưng có sự cạnh tranh về tài năng, sự chú ý và nguồn lực.
Ví dụ, Trung Quốc quản lý điều này ở quy mô lớn: các kỹ sư hàng đầu của họ làm việc tại các công ty như DJI hoạt động thương mại và xuất khẩu. Các nguồn khác nhau ước tính rằng khoảng 60% linh kiện nước ngoài trong drone của Nga và lên đến 80% số linh kiện được các nhà sản xuất Ukraine sử dụng có nguồn gốc từ Trung Quốc. Việc sản xuất liên tục theo định hướng thị trường này giữ cho toàn bộ hệ thống – từ thiết kế đến hậu cần – luôn hoạt động và ở trạng thái tốt.
Không một nhóm các công ty khởi nghiệp nhỏ nào, dù sáng tạo đến đâu, có thể tự mình giải quyết những vấn đề như vậy. Một hệ sinh thái khởi nghiệp thiếu quy mô và không thể đạt được khối lượng mua sắm hoặc tích hợp hệ thống cần thiết cho kiến trúc quốc phòng quốc gia. Tóm lại, đó là một sáng kiến khác. Xây dựng một nền tảng kỹ thuật quốc phòng bền vững không phải là về các khoản tài trợ và các cuộc gặp gỡ; nó đòi hỏi nghệ thuật quản lý nhà nước chiến lược – đầu tư dài hạn, phối hợp và lập kế hoạch ở cấp quốc gia.
Giới hạn của sự linh hoạt
Không thể phủ nhận cuộc chiến ở Ukraine đã bộc lộ những vấn đề hệ thống sâu sắc trong sản xuất quân sự trên khắp Mỹ và Tây Âu, đồng thời cũng làm nổi bật rõ ràng quỹ đạo phát triển công nghệ của Trung Quốc và Nga. Hai quốc gia này đang nổi lên như những chủ thể mẫu hình chính trong các cuộc xung đột phi hạt nhân trong tương lai – với trọng tâm vào tính nhất quán của hệ thống, khả năng mở rộng và sự trưởng thành về công nghệ.
Ngược lại, khi bắt đầu cuộc chiến, Ukraine có một hệ sinh thái quốc phòng đã suy thoái. Khu vực nhà nước tập trung vào cải cách nội bộ và duy trì các hợp đồng xuất khẩu được thừa hưởng từ thời Liên Xô, trong khi khu vực quốc phòng tư nhân hầu như không tồn tại. Mô hình duy nhất có thể nhanh chóng được triển khai là một hệ thống cung ứng phi tập trung, dựa trên các nhà sản xuất nhỏ, các giải pháp công nghệ thấp và các sáng kiến cộng đồng khởi nghiệp cấp cơ sở.
Hệ thống ứng biến này thực sự đã cung cấp sự hỗ trợ đáng kể trong những năm đầu của cuộc chiến. Nó đã huy động hàng ngàn nhóm, cho phép phản ứng nhanh chóng và hỗ trợ tiền tuyến. Nhưng những hạn chế của nó đã rõ ràng. Việc thiếu kế hoạch chiến lược, các giải pháp rời rạc, không có khả năng mở rộng và nền tảng kỹ thuật yếu kém đã khiến mô hình này đạt đến giới hạn vào năm 2024-2025. Kết quả là một “sở thú” các nền tảng công nghệ – không phối hợp, không tích hợp và thường không hiệu quả trong điều kiện tác chiến điện tử hiện đại.
Mặc dù kinh nghiệm của Ukraine chiếm ưu thế trong truyền thông và diễn ngôn công chúng, giá trị của nó phải được đánh giá cẩn thận – đặc biệt về các chủ đề như phân quyền mua sắm, tận dụng hệ sinh thái khởi nghiệp để mở rộng quy mô quốc phòng, vai trò ngày càng tăng của drone điều khiển từ xa chi phí thấp, v.v. Nó cung cấp những bài học về những việc cần làm khi hệ sinh thái quốc phòng của bạn đã sụp đổ, nhưng nó không trả lời câu hỏi làm thế nào để xây dựng một mô hình quốc phòng trưởng thành về lâu dài. Điều thực sự có giá trị là một phân tích so sánh, được tích hợp với sự hiểu biết về cách các quy trình và hệ sinh thái kỹ thuật, công nghệ dài hạn được tổ chức ở các quốc gia cạnh tranh như Trung Quốc và Nga.
Hệ sinh thái khởi nghiệp quốc phòng của Ukraine không thể được xem là một sự thay thế chiến lược cho các hệ thống nhà nước trưởng thành. Nó còn thiếu sót khi nói đến sản xuất hàng loạt, khả năng tương thích kiến trúc, khả năng xuất khẩu và khả năng phục hồi. Nó phù hợp cho việc huy động ngắn hạn – nhưng không phù hợp cho cạnh tranh hệ thống.
Mỹ và các đồng minh có thể hưởng lợi từ việc nhìn xa hơn động lực của cuộc xung đột hiện tại và xem xét bản chất của các cuộc chiến tranh tiềm năng có thể nảy sinh trong hai đến ba năm tới – các cuộc xung đột có thể đòi hỏi quy mô và mức độ phối hợp công nghệ khác biệt cơ bản. Đáp ứng những yêu cầu trong tương lai đó có thể sẽ phụ thuộc vào khả năng mở rộng nhanh chóng, tập trung nỗ lực và đầu tư vào các nền tảng kỹ thuật dài hạn. Đáng chú ý, Trung Quốc và Nga dường như đang đi theo hướng này bằng cách tinh giản số lượng nền tảng, liên kết với các đối tác công nghiệp và lập kế hoạch theo nhiều năm.
Trong bối cảnh chiến lược như vậy, yếu tố quyết định có thể không phải là số lượng công ty khởi nghiệp hay drone chi phí thấp, mà là khả năng của một quốc gia để phát triển các hệ sinh thái quốc phòng tích hợp sâu sắc, có thể mở rộng và bền vững. Mặc dù kinh nghiệm của Ukraine mang lại những bài học quý giá – đặc biệt về sự linh hoạt và khả năng huy động – nó nên được áp dụng một cách cẩn trọng. Việc tích hợp toàn bộ mô hình đó, mà không tính đến sự khác biệt về cấu trúc trong các thể chế quốc phòng và cơ sở công nghiệp của phương Tây, thực sự có thể làm suy yếu hiệu quả của các chiến lược phương Tây về lâu dài.
Vitaliy Goncharuk từng giữ chức chủ tịch Ủy ban AI của Ukraine từ năm 2019 đến 2023, là thành viên Hội đồng Đổi mới bên ngoài của UkrOboronProm (được đổi tên thành Hệ thống Quốc phòng Ukraine), và cố vấn cho Phó Thủ tướng Ukraine phụ trách các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng tạm thời, người sau này trở thành Bộ trưởng Quốc phòng.