Nguồn: M. Reece Breaux, “China Won’t Stop Playing With Fire in the South China Sea,” The Diplomat, 19/08/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Vụ va chạm giữa một tàu Hải Cảnh Trung Quốc và một tàu khác của Hải quân nước này là dấu hiệu cảnh báo đáng ngại.
Trung Quốc lại một lần nữa đẩy tranh chấp Biển Đông với Philippines đến bờ vực thẳm. Ngày 11/08 vừa qua, một tàu khu trục của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) đã suýt đâm vào một tàu của Lực lượng Tuần dương Philippines (PCG), có khả năng gây thương tích hoặc tệ hơn, khiến Philippines có thể viện dẫn Hiệp ước Phòng thủ Chung (MDT) năm 1951 với Mỹ.
Bắc Kinh thường cáo buộc Mỹ và các đồng minh đang “đùa với lửa.” Nhưng sự cố này nhấn mạnh cách tiếp cận hung hăng, thiếu chuyên nghiệp, và gây bất ổn của Trung Quốc nhằm bảo vệ các yêu sách hàng hải bất hợp pháp của họ có thể nhanh chóng vượt khỏi tầm kiểm soát.
Trong những đoạn video do Tuần dương Philippines đăng tải, tàu PLAN 164 đã đánh lái bất thường và với tốc độ cao về phía mạn phải tàu BRP Suluan, chỉ cách con tàu Philippines vài mét. Cùng lúc đó, tàu Hải cảnh Trung Quốc (CCG) 3104, cũng bám sát BRP Suluan, sau đó đâm mạnh mũi tàu vào mạn trái tàu PLAN 164, gây ra hậu quả mà người phát ngôn PCG Jay Tarriela mô tả là “thiệt hại đáng kể,” khiến chiếc CCG 3104 “không đủ điều kiện đi biển.” Ít nhất ba nhân viên của Hải cảnh Trung Quốc đang đứng ở mũi tàu CCG 3104 vào thời điểm xảy ra va chạm; không rõ liệu họ có bị thương trong vụ việc hay không.
Sau vụ va chạm, Bộ Quốc phòng Trung Quốc đổ lỗi cho Philippines, nói rằng tàu Philippines đã “nhiều lần thực hiện các động tác nguy hiểm, bao gồm cả các pha tấn công tốc độ cao, và rẽ gấp trước mũi tàu Trung Quốc.” Tuy nhiên, video do PCG công bố cho thấy hai tàu Trung Quốc mới nhiều lần cắt ngang đường đi của nhau khi truy đuổi tàu BGP Suluan.
Vụ việc này – xảy ra quanh Bãi cạn Scarborough thuộc Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của Philippines – cũng đáng chú ý vì sự tham gia ở tiền tuyến rất bất thường của Hải quân Trung Quốc vào cái mà các chiến lược gia Quân Giải phóng Nhân dân gọi là “bảo vệ quyền hàng hải.” Tàu của Hải quân Trung Quốc hiếm khi trực tiếp tham gia vào các hành động cưỡng chế vật lý, mà thường ẩn núp phía sau để hỗ trợ các tàu Hải cảnh ở tuyến đầu và ngăn tàu khác can thiệp. Tuy nhiên, trong vụ việc này, tàu PLAN 164 đã cùng với CCG 3104 truy đuổi tàu BRP Suluan một lúc trước khi cố gắng đâm vào con tàu Philippines.
Trung Quốc có thể đã triển khai PLAN 164 để trừng phạt các hành vi gần đây của Philippines, bao gồm Chiến dịch Kadiwa của Manila nhằm hỗ trợ cộng đồng ngư dân Philippines dưới áp lực của Trung Quốc, và tuyên bố gần đây của Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr., rằng “Philippines không thể đứng ngoài” một cuộc xung đột liên quan đến Đài Loan. Trung Quốc thường sẽ tăng cường hoặc rút quân để trừng phạt hoặc khen thưởng các quốc gia có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh.
Hành động cưỡng ép ngày 11/08 là một trong những hành động nguy hiểm nhất trong chiến dịch kéo dài hàng thập kỷ của Trung Quốc nhằm kiểm soát các yêu sách chủ quyền rộng lớn ở Biển Đông bằng vũ lực. Dù sự cố suýt va chạm này có thể khiến Trung Quốc tạm thời xuống thang, nhưng nó không thay đổi được những niềm tin ý thức hệ đã thúc đẩy sự quyết đoán trên biển của Bắc Kinh.
Để thực sự bình định Biển Đông, Philippines, Mỹ, và các quốc gia có cùng chí hướng khác phải cùng nhau đảm bảo sức mạnh vượt trội so với Trung Quốc và xây dựng các cấu trúc ảnh hưởng (gồm các ràng buộc và khuyến khích) nhằm định hình hành vi của Trung Quốc theo hướng tránh xa sự hung hăng.
Trung Quốc sẽ không tự thay đổi cách tiếp cận của mình
Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình sẽ không lùi bước trong việc theo đuổi cái gọi là yêu sách lịch sử của nước này đối với khoảng 90% Biển Đông. Dù sự bất lợi về tương quan sức mạnh lâu nay đã kiềm chế tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng Tập giờ đây nhận định rằng “một sự thay đổi đáng kể” trong “cán cân quyền lực quốc tế” đã tạo ra “những cơ hội chiến lược” mới để đạt được các mục tiêu của Trung Quốc. Theo quan điểm của ông, Trung Quốc không cần phải nhượng bộ chiến lược – kể cả trong lĩnh vực hàng hải – bởi những hạn chế hiện tại sẽ đơn giản biến mất khi Trung Quốc trở nên hùng mạnh hơn.
Là một người vững tin vào ý thức hệ, Tập cho rằng ông và Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đang đi trên một quỹ đạo lịch sử không thể ngăn cản để đưa Trung Quốc trở lại vị thế mà họ cho là xứng đáng ở trung tâm chính trị toàn cầu sau Bách niên quốc sỉ (Thế kỷ bị sỉ nhục). Thật vậy, phân tích của Tập rằng “phương Đông đang trỗi dậy và phương Tây đang suy tàn” đã thuyết phục ông rằng Trung Quốc có thể tự do theo đuổi các mục tiêu của mình vì sự phản kháng đang ngày càng giảm sút.
Khuôn khổ ý thức hệ này tập trung vào việc đạt được “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa” vào năm 2049. Được mô tả lần đầu bởi nhà lãnh đạo khi đó là Giang Trạch Dân, phục hưng dân tộc bao gồm việc đưa Trung Quốc trở thành một “nước xã hội chủ nghĩa hiện đại vĩ đại thịnh vượng, hùng mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, và tươi đẹp.” Chiến lược của ĐCSTQ cho mục tiêu này là phát triển và áp dụng “sức mạnh quốc gia toàn diện” để xây dựng tầm ảnh hưởng toàn cầu, cũng như năng lực quân sự, sức mạnh kinh tế và công nghệ, sự gắn kết xã hội và quản trị, và tính bền vững môi trường. Chiến lược này định hình cách tiếp cận của Trung Quốc đối với mọi vấn đề – bao gồm cả các yêu sách của nước này ở Biển Đông.
Các nhà lãnh đạo ĐCSTQ tin rằng việc kiểm soát Biển Đông sẽ mang lại những điều kiện chính trị, chiến lược, và kinh tế có lợi cho phục hưng dân tộc. Cụ thể, Trung Quốc tin rằng việc kiểm soát này sẽ củng cố ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với các quốc gia trong khu vực; mở rộng không gian chiến lược; nâng cao uy tín; thúc đẩy các chuẩn mực mong muốn; cho phép khai thác tài nguyên thiên nhiên trên lãnh thổ mà các quốc gia khác tuyên bố chủ quyền; và có lẽ quan trọng nhất là giành quyền kiểm soát các tuyến đường biển cần thiết cho việc triển khai sức mạnh và thương mại qua Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Nếu không kiểm soát được Biển Đông, Trung Quốc tin rằng mình sẽ bị Mỹ kiềm chế – một nỗi sợ được thể hiện rõ trong khái niệm “Lưỡng nan Malacca” của cựu lãnh đạo Hồ Cẩm Đào.
Tập và các lãnh đạo ĐCSTQ khác cũng gắn việc kiểm soát Biển Đông với việc đưa Trung Quốc phát triển thành một “cường quốc hàng hải” hùng mạnh, một vị thế mà họ xem là then chốt trong quá trình phục hưng dân tộc. Thật vậy, hồi năm 2013, Tập từng tuyên bố rằng việc Trung Quốc trở thành một cường quốc hàng hải “có ý nghĩa to lớn và sâu rộng… đối với… sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa.” Theo Cầu Thị, tạp chí lý luận hàng đầu của ĐCSTQ, một cường quốc hàng hải có thể “phát huy sức mạnh tổng hợp lớn của mình để phát triển, sử dụng, bảo vệ, quản lý, và kiểm soát các đại dương.” Trung Quốc không phải là một cường quốc như vậy vì họ vẫn chưa kiểm soát được tất cả các yêu sách trên biển của mình.
Vì lẽ đó, Trung Quốc đang nhanh chóng hiện đại hóa lực lượng quân sự và bán quân sự để trang bị cho đất nước một lực lượng hải quân “hùng mạnh” và một hạm đội hành pháp trên biển “tiên tiến” có thể – và sẽ – bảo vệ các yêu sách lãnh thổ của nước này trước một “kẻ thù mạnh.” Liên quan đến điều này, vào năm 2012, ĐCSTQ đã thành lập “Tiểu tổ Lãnh đạo Trung ương về Bảo vệ Quyền hàng hải” để phối hợp các chính sách liên quan đến các yêu sách hàng hải, qua đó thể hiện sự tập trung lâu dài của chế độ vào vấn đề này.
Cuối cùng, quan niệm của Trung Quốc về “lợi ích cốt lõi” cũng bao gồm các yêu sách hàng hải, cho thấy Bắc Kinh sẽ không từ bỏ chúng. Những lợi ích cốt lõi này bao gồm ba yếu tố: đảm bảo an ninh chính trị và quốc gia của Trung Quốc, đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc, và đảm bảo sự phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc. Sau khi Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc lần đầu tiên định nghĩa “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc vào năm 2009, các quan chức ĐCSTQ đã làm rõ với các đối tác Mỹ vào năm 2010 rằng các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông là một phần không thể thiếu đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước này. Việc nâng các yêu sách hàng hải lên vị thế “lợi ích cốt lõi” phản ánh quyết tâm của Trung Quốc trong việc bảo vệ chúng.
Nói tóm lại, niềm tin ý thức hệ, biện pháp chính sách, và quan niệm về “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc cho thấy các yêu sách của nước này ở Biển Đông là không thể đàm phán hay thỏa hiệp, và chiến lược hung hăng của nước này nhằm bảo vệ các yêu sách này sẽ không thay đổi.
Manila đã đóng băng lợi ích của Bắc Kinh
Bắc Kinh đã có thể mở rộng quyền kiểm soát Biển Đông trong thập niên 2010 chủ yếu là nhờ sự chấp thuận của các quốc gia ven biển, bao gồm cả chính phủ của cựu Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte (2016-2022). Duterte khi đó đã tạo khoảng cách giữa Manila và Washington và chấp nhận sự hiện diện hàng hải ngày càng tăng của Trung Quốc để đổi lấy các khoản đầu tư lớn hơn và quyền tiếp cận thị trường của Trung Quốc.
Duterte tin rằng việc công khai phản đối Trung Quốc là vô ích, xét đến quân đội yếu kém và nhu cầu phát triển cấp thiết của Philippines. Vì thế, ông đã tìm cách hòa giải với Bắc Kinh, bao gồm việc áp dụng lập trường mềm mỏng hơn trong các tranh chấp hàng hải, ký kết một “thỏa thuận không nuốt lời” nhằm hạn chế khả năng Manila tiếp tế cho lực lượng đồn trú trên Bãi Cỏ Mây, và cắt giảm hợp tác với Mỹ. Hơn nữa, ông còn hạ thấp tầm quan trọng của phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế năm 2016, vốn có lợi cho Philippines, gọi đó là “một tờ giấy lộn.” Việc Manila dung túng cho các hành vi xâm phạm bất hợp pháp của Bắc Kinh trong giai đoạn này đã củng cố một hiện trạng đáng lo ngại: lấn chiếm biển vì hòa bình và lợi ích kinh tế.
Tuy nhiên, Marcos, người kế nhiệm Duterte, đã đảo ngược cách tiếp cận này, trực tiếp đối đầu với Trung Quốc về sự hiện diện bất hợp pháp và các hành vi gây hấn của nước này trên vùng biển Philippines. Sau khi nhậm chức vào năm 2022, chính phủ của ông đã tìm cách phản đối Trung Quốc trong các lĩnh vực ngoại giao, quân sự, pháp lý, và thông tin. Về mặt ngoại giao, Philippines đã củng cố quan hệ song phương và đa phương với các quốc gia có cùng chí hướng như Nhật Bản và Australia, đồng thời tăng cường liên minh với Mỹ, bao gồm cả việc cho phép Washington tiếp cận nhiều căn cứ hơn theo Thỏa thuận Hợp tác Quốc phòng Tăng cường giữa hai nước. Về mặt quân sự, Manila đã cho phép Mỹ triển khai các hệ thống tên lửa có thể đe dọa tài sản của Trung Quốc ở Biển Đông, phát triển cơ sở hạ tầng quân sự và giám sát trên quần đảo chính và các tiền đồn ở Trường Sa, đồng thời củng cố sự hiện diện xung quanh các điểm nóng trên biển đang tranh chấp với Trung Quốc – bao gồm Bãi cạn Scarborough. Về mặt pháp lý, chính phủ đã phê chuẩn một đạo luật trong nước, trong đó nêu rõ vùng lãnh hải của Manila theo quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Và trong lĩnh vực thông tin, Philippines đã tiến hành một chiến dịch thu thập tài liệu và phơi bày thông tin chống lại hành vi gây hấn của Trung Quốc thông qua các nhà báo trên tàu PCG.
Cách tiếp cận này phần lớn đã ngăn cản Bắc Kinh mở rộng quyền kiểm soát vùng biển Philippines, ngay cả khi Trung Quốc vẫn liên tục hoạt động trên vùng biển này. Tất nhiên, Trung Quốc có thể tận dụng lợi thế quân sự và bán quân sự áp đảo của mình so với Philippines để tiêu diệt bất kỳ lực lượng Philippines nào dám cản đường họ. Bắc Kinh từ chối lựa chọn này vì họ không muốn gánh chịu những hậu quả của việc leo thang đến vũ lực gây chết người – cụ thể là bị tổn thất danh tiếng nghiêm trọng và một cuộc đụng độ quân sự tiềm tàng với Mỹ.
Tuy nhiên, vụ việc ngày 11/08 không phải là lần đầu tiên hành động hung hăng của Trung Quốc suýt gây thương vong cho binh sĩ Philippines. Hồi tháng 06/2024, các thành viên của Hải cảnh Trung Quốc đã lên các xuồng cao su thân cứng của Hải quân Philippines khi đó đang cố gắng tiếp tế cho lực lượng đồn trú của Manila tại Bãi Cỏ Mây. Phía Trung Quốc đã đe dọa các quân nhân Philippines bằng vũ khí sắc nhọn và kéo một số tàu Philippines ra khỏi bãi cạn một cách trái phép. Trong vụ việc này, vụ va chạm giữa hai con tàu đã nghiền nát bàn tay của một thủy thủ Philippines, khiến ngón tay cái của anh ta bị đứt lìa.
Ngay sau đó, Trung Quốc và Philippines đã đạt được một “thỏa thuận tạm thời” không có chi tiết rõ ràng, và kể từ đó Bắc Kinh đã không còn tìm cách ngăn chặn bất kỳ nhiệm vụ tiếp tế nào tới Bãi Cỏ Mây. Nhiều khả năng Bắc Kinh đã đánh giá rằng việc leo thang thêm nữa có thể dẫn đến thương vong, và do đó làm phức tạp đáng kể vị thế chiến lược của Trung Quốc.
Thật vậy, tại một diễn đàn vào tháng 04/2024, Marcos khẳng định bất kỳ hành động nào của Trung Quốc khiến một quân nhân Philippines thiệt mạng đều là cơ sở để viện dẫn Hiệp ước Phòng thủ Chung với Mỹ. “Chỉ cần thực sự có thương vong, và một quân nhân thiệt mạng… bất kể anh ấy được gọi bằng danh xưng nào… thì đó cũng là một cuộc tấn công nhằm vào Philippines từ một thế lực nước ngoài.,” ông nói.
Ngay trước sự cố tháng 06/2024, Marcos đã nhắc lại lằn ranh đỏ này tại Đối thoại Shangri-La. Ông tuyên bố rằng nếu một quân nhân Philippines bị giết trong một “hành động cố ý,” thì điều đó “rất, rất gần với những gì chúng tôi định nghĩa là một hành động chiến tranh,” đồng thời nói thêm “các đối tác hiệp ước của ông cũng áp dụng tiêu chuẩn tương tự.”
Về phía Washington, bản ghi cuộc gọi vào tháng 01/2025 giữa Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio và Ngoại trưởng Philippines Enrique Manalo nêu rõ Rubio “nhấn mạnh cam kết chắc chắn của Mỹ đối với Philippines theo Hiệp ước Phòng thủ Chung của chúng ta.” Tuyên bố này phản ánh ngôn ngữ của Chính quyền Biden, thể hiện cam kết lưỡng đảng của Washington đối với đồng minh của mình.
Rủi ro leo thang vẫn còn cao
Cả Bắc Kinh lẫn Manila đều khó có thể nhượng bộ các yêu sách chồng lấn của nhau trong tương lai. Trung Quốc sẽ tiếp tục hành động hung hăng để khẳng định các yêu sách của mình, còn Philippines sẽ tiếp tục bảo vệ Vùng Đặc quyền Kinh tế của mình. Những lập trường đối lập hoàn toàn này tạo ra nguy cơ leo thang không bền vững, có thể dẫn đến xung đột giữa các cường quốc.
Tòa Trọng tài đã bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc là bất hợp pháp theo UNCLOS. Tuy nhiên, việc viện dẫn các chuẩn mực và luật pháp quốc tế đã không đạt hiệu quả mong muốn. Vì Bắc Kinh đang phản ứng bằng sức mạnh, nên Washington và Manila phải thể hiện ý chí của mình bằng hành động cụ thể, khiến cái giá phải trả cho hành vi gây hấn của Trung Quốc tăng lên.
Trước hết, Washington và Manila phải cùng nhau tổ chức các sáng kiến công nghiệp, quân sự, và kinh tế với các đối tác khác để phát triển năng lực sức mạnh cứng, vượt trội hơn Trung Quốc về cả chất lượng lẫn số lượng. Việc mua bán và chuyển giao năng lực không liên tục, như kiểu thỏa thuận mà Philippines đã ký với Ấn Độ và Pháp, là không đủ để đối phó với lực lượng hải quân và kho vũ khí tên lửa đáng gờm của Trung Quốc.
Việc Mỹ đầu tư đáng kể vào năng lực hàng hải và quốc phòng của Philippines trong bốn năm qua là một khởi đầu tốt, nhưng hai bên cần phải tăng cường các hợp tác đa phương cùng loại. Hợp tác đa phương Mỹ-Philippines-Nhật Bản-Australia và hợp tác ba bên Mỹ-Philippines-Nhật Bản nên tập trung nguồn lực vào các chương trình xây dựng năng lực hiện có để triển khai các năng lực đa phương – bao gồm các hệ thống nhận thức tình huống hàng hải và các nền tảng tự động có thể chấp nhận tổn thất – nhằm vô hiệu hóa lợi thế hàng hải của Trung Quốc.
Thứ hai, Washington, Manila, và các đối tác nên áp dụng ưu thế sức mạnh này để xây dựng các cấu trúc ảnh hưởng nhằm định hình hành vi hàng hải của Trung Quốc theo hướng tránh xa sự hung hăng. Các cấu trúc này bao gồm việc chủ động thay đổi môi trường chiến lược của Trung Quốc thông qua các biện pháp như mở rộng hoạt động quân sự vĩnh viễn, luân chuyển hệ thống tên lửa, và các cuộc tập trận đa phương để làm phức tạp thêm các hoạt động của Bắc Kinh. Các đồng minh cũng nên xây dựng các thỏa thuận thương mại toàn diện và các giải pháp thay thế về vốn để làm suy yếu tiềm năng cưỡng chế kinh tế của Trung Quốc, đồng thời tạo ra các thách thức ngoại giao và pháp lý nhằm làm tổn hại danh tiếng toàn cầu của Trung Quốc.
Các đồng minh cũng nên áp dụng các biện pháp đối phó ngay lập tức và tự động để phản ứng trước hành vi gây hấn hoặc vi phạm chủ quyền của Trung Quốc đối với Philippines. Các biện pháp này nên bao gồm việc thực hiện các cuộc tập trận đa phương tại các khu vực nhạy cảm với thời gian thông báo trước ngắn, triển khai thêm các thiết bị quân sự như hệ thống tên lửa, trừng phạt và áp thuế lên các cá nhân và thực thể Trung Quốc có liên quan, tiến hành các chiến dịch tấn công mạng nhắm vào các cá nhân và cơ quan chính phủ Trung Quốc liên quan đến tranh chấp hàng hải, và theo đuổi các vụ kiện tại các tòa án và cơ quan liên quan. Sự kết hợp giữa thay đổi môi trường chiến lược của Trung Quốc và trừng phạt từng hành vi vi phạm sẽ buộc Trung Quốc phải giảm bớt, và theo thời gian, chấm dứt các hành vi gây hấn ở Biển Đông.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này sẽ tốn kém, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, và tiềm ẩn rủi ro leo thang ngắn hạn. Trung Quốc ban đầu có thể sẽ đáp trả bằng các biện pháp đối phó của riêng mình, do đó đòi hỏi cam kết đa phương bền vững và quản lý leo thang thận trọng. Để giảm thiểu rủi ro leo thang, các đồng minh nên duy trì các kênh ngoại giao để ngăn ngừa tính toán sai lầm và cung cấp cho Trung Quốc các giải pháp thay thế để giữ thể diện, ngay cả khi vẫn cam kết với chiến lược của họ.
Lập trường cứng rắn của Trung Quốc và Philippines đã tạo thành một “thùng thuốc súng chiến lược” sẵn sàng nổ tung. Những khuyến nghị được đề xuất trên đây tuy tốn kém và đòi hỏi sự phối hợp đa phương chưa từng có, nhưng việc thực hiện chúng sẽ thuyết phục Trung Quốc tin rằng họ không còn được hưởng “cơ hội chiến lược” ở Biển Đông, buộc Bắc Kinh phải lùi bước bằng cách tăng cái giá cho hành động gây hấn trên biển của họ.
M. Reece Breaux là nghiên cứu viên của Chương trình Nghiên cứu Quốc hội của Quỹ Bảo vệ Dân chủ (FDD).