Hội nghị Liễu Châu định hình kết quả đàm phán Hội nghị Geneva 1954 (P2)

Nguồn: “周恩来与日内瓦会议”,第 27 章 “关键的柳州会议” 钱江著
中共党史出版社 2005.1

Biên dịch và chú thích: Nguyễn Hải Hoành

Xem thêm: Phần 1

Hạ tuần tháng 6 năm 1954, 4 sư đoàn chủ lực quân đội Việt Nam sau khi hoàn thành chiến dịch Điện Biên Phủ đã tập kết vào một khu vực cách Hà Nội 80 km về phía tây bắc. Tổng Tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Văn Tiến Dũng chỉ huy một đơn vị nhỏ của sư đoàn 320 tiến sâu vào khu vực cách Hà Nội 15 km. Để giữ lấy đồng bằng sông Hồng, Mỹ cho máy bay giúp Pháp vận chuyển một trung đoàn 2100 lính từ Bắc Phi đến Hà Nội, nhưng số binh lực này lúc ấy chỉ như muối bỏ biển, chẳng được tích sự gì. Chiến trường tiếp tục phát sinh những thay đổi có lợi cho quân đội Việt Nam.

Ngày 24 tháng 6, bộ đội Việt Nam đánh chiếm huyện lỵ An Khê trên quốc lộ số 19 ở Trung bộ Việt Nam. Một bộ phận Trung đoàn Cơ động số 100 của quân Pháp đồn trú tại đây bỏ chạy về Plâyku, dọc đường bị quân Việt Nam phục kích. Trong trận này, binh lực hai bên gần như nhau, hai bên hoàn toàn có thể tác chiến ngang hàng. Thế nhưng quân Pháp không có tinh thần chiến đấu, hơn 1000 lính Pháp hầu như bị tiêu diệt sạch. Sau trận này, quân Việt Nam hoàn toàn chiếm quyền chủ động trên chiến trường Trung bộ.

Từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 6, tại Bắc bộ Việt Nam, quân Pháp rút khỏi 5 huyện lỵ, hơn 60 cứ điểm, trong đó có hai tỉnh lỵ Ninh Bình và Thái Bình. Ngày 3 tháng 7, quân Pháp lại rút khỏi thị trấn Phủ Lý. Trên đường rút lui, quân Pháp bị bộ đội Việt Nam tấn công, hơn 1000 lính Pháp thiệt mạng. Tại Liễu Châu, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh rất quan tâm tới tình hình đó.

Phiên họp lần 4 hội nghị Liễu Châu tiến hành vào sáng ngày 4 tháng 7, Trương Văn Tấn làm thư ký ghi chép. Chu Ân Lai tập trung nói về các vấn đề có liên quan tới việc quản trị vùng lãnh thổ tạm thời phân chia cho Việt Nam. Ông nói, căn cứ vào trình độ có thể tiếp thu của hai bên, cuối cùng đạt được thỏa thuận [phân giới] ở vĩ tuyến 16 mới là tốt. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo vùng phía nam vĩ tuyến 16 có thể rút lên phía bắc vĩ tuyến 16, nhưng các cán bộ lãnh đạo chủ chốt có liên hệ với quần chúng nhân dân thì thế nào cũng phải ở lại để chuẩn bị làm tổng tuyển cử. Công tác công khai và bí mật đều cần cán bộ. Nếu có thể tiến hành tuyển cử thì dĩ nhiên là tốt; nếu tiến hành muộn, thậm chí không thể tiến hành thì có thể làm công tác trong quần chúng. Về vấn đề rút lực lượng [của ta] đi khỏi vùng phía nam vĩ tuyến 16, tất phải thuyết phục quần chúng. Dù có khó khăn cũng phải thuyết phục họ, đó là vì lợi ích toàn cục.

Về vấn đề Lào và Campuchia, Chu Ân Lai cho rằng phương châm giải quyết vấn đề này ắt phải khác với Việt Nam. Việt Nam dựa vào tự phấn đấu mà nổi lên, bản chất là chủ nghĩa dân chủ mới. Nhưng Lào và Campuchia thì khác, hiện nay nếu họ được tự do, dân chủ, độc lập là giỏi lắm rồi. Điều quan trọng là làm cho họ không thể ngả theo bọn đế quốc, giữ trung lập.

Chu Ân Lai một lần nữa nhắc lại hội nghị Geneva 8 tuần qua nói chung được cho là có thành tích. Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cũng nhận định như vậy. Chủ yếu là nhờ sức mạnh của 3 nước [Liên Xô-Trung Quốc-Việt Nam], hơn nữa lại có tác dụng lãnh đạo của phái đoàn Liên Xô. Đoàn Liên Xô giàu kinh nghiệm, chẳng những về sách lược [chúng ta] cần được họ nắm lấy mà về kỹ thuật, văn kiện cũng phải dựa vào họ. Đương nhiên họ cũng có một số khuyết điểm, có khi chuẩn bị không được tốt, có lúc nói quá nhiều, có lúc lại nói ít quá.

Sau ngày 20 tháng 6, Ngoại trưởng các nước rời Geneva. Trong 3 tuần sau đó, công việc của chúng ta là, tuần thứ nhất, làm tốt không khí hội nghị. Muốn vậy tôi đã gặp Mendès-France, gặp các phái đoàn Lào và Campuchia. Tuần thứ hai, cố ý trì hoãn một chút, thế là Pháp đưa ra một phương án phân chia lãnh thổ Việt Nam, như vậy ta sờ thấy cái đuôi của Pháp. Tuần thứ ba, tức hiện nay, chuẩn bị giải quyết một số vấn đề. Như vậy là trong tuần thứ ba, có thể còn có tuần thứ tư, đại để có thể bàn xong mọi vấn đề. Sau đó trong tháng 7 thể nào cũng họp hội nghị các Ngoại trưởng, thông qua các vấn đề nguyên tắc, và bàn vấn đề chính trị. Mong sao hội nghị Geneva không bị gián đoạn, chờ đến cuối năm lại họp lần nữa, như thế thì Liên Hợp Quốc không có tác dụng gí cả. Đợi đến vài tháng sau ngày đình chiến lại họp, cụ thể hóa các vấn đề chính trị, đồng thời để các quốc gia đảm bảo hiệp định tiến hành thẩm tra tình hình đình chiến, cũng có thể xem xét vấn đề tăng số quốc gia đảm bảo hiệp định. Nếu thu hút được các nước như Ấn Độ vào thì tốt, có thể làm cho Mỹ bó tay.

Chu Ân Lai nói rất chi tiết, trình bày rõ ràng ý kiến của phía Trung Quốc là mong muốn vạch đường phân giới tạm thời tại vĩ tuyến 16 Việt Nam. Thực ra lúc bấy giờ phía Việt Nam đã tiếp thu quan điểm hai bên có thể đạt được hiệp định chọn vĩ tuyến 16. Tiếp đó, hội nghị Liễu Châu bàn một số vấn đề cụ thể.

Chu Ân Lai cho biết, về vấn đề Đảng Lao động Việt Nam rời bỏ một số căn cứ địa ở miền Nam, rút bộ đội ra miền Bắc, không yêu cầu bộ đội không chính quy phải nộp vũ khí. Có thể cất giấu được vũ khí thì cứ cất giấu, cán bộ quân đội có thể ở lại thì cứ ở lại. Phải phân tán giấu vũ khí, không được giấu tập trung nhằm tránh để vũ khí lọt vào tay địch.

Võ Nguyên Giáp nói: Bước đầu chúng tôi dự định rút khoảng 60 nghìn người đi khỏi miền Nam, trong đó có 50 nghìn bộ đội, 10 nghìn cán bộ chính trị, người nào “đỏ” quá đều phải rút đi. Cũng có dự định để một số ít trong số 60 nghìn người ở lại miền Nam, chẳng hạn để lại từ 5000 đến 10000 người, chờ thời cơ.

Trong đối thoại liên tục tại hội nghị, Chu Ân Lai nói: Tình hình hiện nay có 3 khả năng, cũng có 3 đối sách là Thượng-Trung-Hạ sách. Thượng sách là hòa [bình], Trung sách là vừa hòa vừa đánh, hạ sách là đánh tiếp. Nếu tình thế là phải đánh tiếp thì hướng chủ công của các đồng chí là gì?

Võ Nguyên Giáp nói: Nếu mở rộng chiến tranh thì chúng tôi chủ trương trước tiên đánh đồng bằng sông Hồng, một bộ phận quân đội sẽ hoạt động tại Lào và Liên khu 5 để kiềm chế địch.

Chiều hôm đó họp phiên thứ 5, nội dung chính là Chu Ân Lai phát biểu, giới thiệu về vấn đề giám sát quốc tế sau ngừng chiến. Trình bày xong vấn đề này, ông đề nghị: Có lẽ các văn bản viết về tình hình và phương châm chính sách hiện nay nên lấy danh nghĩa là của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đưa ra thảo luận tại Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam? Bởi lẽ hiện nay thời cơ đã đến, trước tiên thảo luận ở Bộ Chính trị rồi đưa ra hội nghị toàn thể Trung ương thảo luận. Sau đó truyền đạt xuống các nơi nhằm thống nhất tư tưởng chính trị trong toàn thể cán bộ. Nếu không làm thế thì sẽ không dễ đi qua bước ngoặt này. Chu Ân Lai nói, phương án cơ bản của phía chúng ta có thể sẽ là như sau: Lấy vĩ tuyến 16 vạch đường phân giới tạm thời; tại Lào, ta yêu cầu giành được 3 vùng ở Thượng, Trung và Hạ Lào, cuối cùng là giành được Thượng Lào, cũng có thể cộng thêm một vùng ở Trung Lào; tại Campuchia, có thể yêu cầu chia vùng tập kết, nhưng chưa thể có hy vọng lớn hơn.

Trời tối dần, lúc này Hồ Chí Minh bắt đầu phát biểu, từ hôm khai mạc hội nghị đến giờ, ông rất ít nói. Hồ Chí Minh cho rằng trên vấn đề lớn là hội nghị Geneva, chúng ta nên hỗ trợ Mendès-France, chớ nên để ông ta bị hạ bệ. Mendès-France có thái độ tích cực đối với hội nghị này; nếu đàm phán bất thành, ông ta bị hạ bệ thì đó là điều bất lợi với ta. Cần giữ quan hệ tốt với nước Pháp, tranh thủ hòa bình. Tuy Hồ Chí Minh nói không nhiều, nhưng lời ông nói rất có sức nặng, cho thấy ông đã hạ quyết tâm tranh thủ giành viễn cành hòa bình cho hội nghị Geneva.

Hội nghị Liễu Châu họp đến đây, lập trường quan điểm của hai bên Trung Quốc-Việt Nam đã phối hợp với nhau. Tối hôm đó hội nghị tạm nghỉ, nhưng các nhà lãnh đạo hai bên không ai nghỉ cả. Chu Ân Lai báo cáo Trung ương về tiến trình hội nghị, cho biết ngoài các phát biểu tại hội nghị, còn cá biệt trao đổi ý kiến với Hồ Chí Minh. Ban đầu hội nghị Liễu Châu dự định họp hai ngày, bây giờ xem ra vì đề cập tới phương án giải quyết cụ thể nên ngày mai còn phải họp thêm một hôm nữa, vì vậy phải hoãn về Bắc Kinh một ngày.

Nói một cách tương đối, các trợ thủ của Chu Ân Lai muốn thoải mái một chút. Mấy hôm trước, lần đầu đến Quảng Châu đúng dịp ngoài chợ có bán quả vải, Mã Liệt ăn hơi nhiều vải làm cho bụng dạ khó chịu. Sau khi đến Liễu Châu, Kiều Quán Hoa nói đùa “Ăn tại Quảng Châu, chết tại Liễu Châu”. Câu sau ý nói Liễu Châu có nhiều cây gỗ tốt, thích hợp dùng để đóng quan tài. Tối hôm ấy rỗi việc, hai người ra phố chơi xem xem. Kết quả chẳng thấy chỗ nào có bán quan tài. Thì ra qua bao năm, rừng cổ đại ở Liễu Châu đã bị các thế hệ sau chặt hết rồi, lẽ tự nhiên từ lâu nghề đóng quan tài đã suy tàn.[1]

Thực ra các vấn đề hội nghị Liễu Châu cần giải quyết đều là những vấn đề vô cùng bức thiết. Cùng hôm mùng 4 tháng 7, lúc 9 giờ sáng, trên chiến trường Bắc bộ Việt Nam, căn cứ theo Hiệp định Geneva, đại diện quân đội hai bên Việt – Pháp đã tiến hành hội đàm tại một địa điểm có tên “Trung Giã” nằm trên quốc lộ số 3 cách tỉnh lỵ Thái Nguyên 30 km về phía nam. Phái đoàn mỗi bên gồm 5 sĩ quan. Tại cuộc họp này, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng đại diện quân đội nhân dân Việt Nam và Đại tá Lennuyeux đại diện quân đội Pháp đã phát biểu. Hai bên quyết định sẽ thảo luận các vấn đề trong khuôn khổ Hiệp định Geneva: 1- vấn đề tù binh; 2- vấn đề thực hiện ngừng bắn; 3- vấn đề điều chỉnh vùng tập kết; 4- vấn đề hai bên thành lập Ủy ban Liên hợp; 5- giải quyết các vấn đề cụ thể do hội nghị Geneva đưa ra. Ngày 5 tháng 7, hai bên đạt được hiệp nghị về vấn đề bàn giao thương binh, bệnh binh và tù binh, quyết định ngày 14 tháng 7 bàn giao đợt thứ nhất.

Thế nhưng cuộc đàm phán trên chiến trường Việt Nam chỉ có thể tiến hành trong khuôn khổ Hiệp định Geneva đã quy định. Lúc bấy giờ cuộc hội đàm Văn Tiến Dũng – Lennuyeux vừa mới bắt đầu đã phải dừng lại, chờ hội nghị Geneva bàn sâu hơn. Vì vậy khi quyết định phương án đàm phán cơ bản của phe phương Đông tất phải dựa vào hội nghị Liễu Châu.

Phiên họp lần thứ 5 hội nghị Liễu Châu bắt đầu vào sáng ngày 5 tháng 7, Mã Mục Minh làm thư ký ghi chép. Hôm ấy Hồ Chí Minh nêu ra nhiều vấn đề với Chu Ân Lai, kể cả vấn đề trong hiệp định sắp ký có nên trình bày phần lý luận hay không, hoặc nên xử lý vấn đề ngụy quân như thế nào, v.v… Võ Nguyên Giáp cũng biểu thị đồng ý với phương án vĩ tuyến 16 của Chu Ân Lai, nhưng ông lại nói hiện giờ Phạm Văn Đồng đang đưa ra phương án vĩ tuyến 13 hoặc 14. Võ Nguyên Giáp cho rằng có thể từng bước nhượng bộ, cuối cùng nhường đến vĩ tuyến 16 là phương án thấp nhất. Vì thế hiện nay về đối ngoại, ta đưa ra yêu cầu lấy vĩ tuyến 14 hoặc 15.

Chu Ân Lai đồng ý với ý kiến của Võ Nguyên Giáp.

Hồ Chí Minh nói, nếu lấy vĩ tuyến 16 làm đường phân giới thì toàn bộ vịnh Bắc bộ là của ta.

Võ Nguyên Giáp còn đưa ra nhiều ý kiến sửa đổi bản dự thảo hiệp định đang bàn, qua đó cho thấy ông xem xét các vấn đề rất tường tận. Trên nhiều chỗ, Chu Ân Lai tỏ ra đồng ý với Võ Nguyên Giáp, và yêu cầu Kiều Quán Hoa căn cứ theo ý kiến nhất trí của mọi người mà sửa lại phương án.

Võ Nguyên Giáp còn đề xuất, theo suy nghĩ của ông, khi rút quân đi khỏi miền Nam thì [cán bộ] các địa phương từ tỉnh trở lên, các đơn vị từ đại đội trở lên đều phải rút hết, tuy nhiên các địa phương từ huyện trở xuống, các đội du kích làng xã đều không rút và đem cất giấu hết vũ khí để chuẩn bị sẵn cho sau này đấu tranh giành lại miền Nam.

Trong phiên họp lần thứ 7 vào chiều hôm đó, Chu Ân Lai nhấn mạnh: Nhất định phải giải thích nhiều lần cho các cán bộ hiểu rõ ý nghĩa của câu “Tiến hành tổng tuyển cử để thống nhất đất nước”. Câu này có hai hàm nghĩa, nghĩa thứ nhất là nói, yêu cầu các cán bộ phải cố gắng công tác thì ta mới giành được phần thắng trong tổng tuyển cử; nghĩa thứ hai là nói phải tạo ra được cục diện tổng tuyển cử, hình thành xu thế không thể không tổng tuyển cử. Việt Nam có đặc điểm là Anh, Pháp và Bảo Đại, không kẻ nào dám phản đối thống nhất đất nước. Về mặt này, điều kiện của Việt Nam tốt hơn Triều Tiên và Đức.

Võ Nguyên Giáp nói, cần chuẩn bị thống nhất tư tưởng trong Đảng. Tháng 7 này có thể họp hội nghị toàn thể Trung ương, khó khăn ở chỗ các đại biểu miền Nam không dễ đến dự, việc truyền đạt cho miền Nam rất khó khăn.

Chu Ân Lai nói, đúng là hoàn cảnh của Việt Nam rất phức tạp, có phân chia vùng cũ và vùng mới, đô thị và nông thôn, trong Đảng và ngoài Đảng, miền Bắc và miền Nam, Việt Nam-Lào-Campuchia, và còn có sự khác nhau với các nước khác. Sáu mối quan hệ khác nhau này rất tế nhị. Khi đạt được hiệp nghị, nhất định phải đồng thời tuyên bố các nguyên tắc cơ bản. Những nguyên tắc ấy là Pháp thừa nhận sự độc lập, thống nhất của 3 nước Đông Dương, và rút quân Pháp, tiến hành tổng tuyển cử v.v…

Tiếp đó Vi Quốc Thanh phát biểu, tỏ ý ủng hộ phát biểu của Chu Ân Lai. Tư tưởng trung tâm trong phát biểu của Vi Quốc Thanh là phải nắm lấy thời cơ thuận lợi, lúc nào có thể ngừng chiến thì phải ngừng ngay. “Nếu tiếp tục đánh thì có thể đuổi được một kẻ địch yếu (là Pháp) nhưng lại dẫn về một kẻ địch mạnh (là Mỹ) – đây là trường hợp ta cần tránh nhất.” Lúc đó Chu Ân Lai nói xen vào: “Đây không phải là giả thiết, mà là sự thực.

Vi Quốc Thanh đưa ra dự án trong trường hợp đàm phán không đạt được thỏa thuận: Nếu không thể “Hòa” được thì trong tháng 10 phải chuẩn bị tấn công đồng bằng sông Hồng.

Khi hội nghị sắp kết thúc, Võ Nguyên Giáp phát biểu: Trước đây, sau khi nghe Hồ Chủ tịch truyền đạt và lần này nghe báo cáo của Thủ tướng Chu Ân Lai, càng hiểu rõ tình hình mới và nhiệm vụ mới. Vấn đề trung tâm hiện nay là phải tranh thủ thống nhất tư tưởng trong Đảng. Tuy rằng có khó khăn, nhưng đã tin tưởng hơn. Nếu truyền đạt được chính sách này xuống dưới, thì các nơi sẽ càng tin tưởng hơn. Tại Lào và Campuchia cũng sẽ như vậy. Khi đàm phán có kết quả, cán bộ miền Bắc nhìn thấy thắng lợi sẽ có thể có hiện tượng lơi lỏng, còn cán bộ miền Nam có thể xuất hiện thái độ bi quan; Campuchia và Lào cũng có thể có tình hình như vậy. Dĩ nhiên cần phải giải quyết vấn đề ấy.

Tiếp đó Hồ Chí Minh phát biểu có tính tổng kết, ông nói: Đồng chí Chu Ân Lai chẳng những cố gắng đấu tranh tại hội nghị Geneva mà còn đến Liễu Châu thuyết trình báo cáo, trình bày vấn đề rất thấu triệt. Chúng tôi rất cảm ơn đồng chí! Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày thành lập tới nay 30 năm qua luôn luôn được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và đồng chí Chu Ân Lai giúp đỡ. Trong hội nghị này, các đồng chí đã bổ sung rất tốt, tôi đồng ý, Ta còn phải cảm ơn sự giúp đỡ của các đồng chí Quảng Tây. Hiện nay Việt Nam đang đứng trước ngã ba, có thể Hòa, cũng có thể Chiến. Phương hướng chính là giành hòa bình, chuẩn bị chiến đấu. Công tác hiện nay phức tạp ở chỗ phải có hai chuẩn bị. Đối với mọi người bình thường, thậm chí đối với các cán bộ, xem ra vấn đề này rất phức tạp, bởi lẽ khẩu hiệu trước kia là “Kháng chiến đến cùng”, bây giờ ngược lại phải hòa. “Rốt cuộc thế nào là đúng?” – Mọi người sẽ hỏi như thế. Tôi đồng ý với quan điểm của các đồng chí, vấn đề quan trọng đầu tiên là phải đả thông tư tưởng. Tuy rằng có rất nhiều khó khăn song trước hết phải dựa vào sự cố gắng của các đồng chí Việt Nam, ngoài ra phải dựa vào sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc.

Trung ương Đảng Lao động phải làm công tác đả thông tư tưởng cho các cán bộ cao cấp, cũng phải đả thông tư tưởng các đồng chí Campuchia và Lào. Thời gian rất cấp bách. Khó khăn ở chỗ ta thiếu cán bộ mà công việc lại rất nhiều. Nếu chuẩn bị tiếp thu Hà Nội, Hải Phòng thì phải chuẩn bị một loạt cán bộ, hiện nay đáng lo nhất là thiếu cán bộ, khi nói vấn đề này, chúng tôi cần được sự giúp đỡ của các đồng chí cố vấn.

Hồ Chí Minh nói, tôi thay mặt hội nghị này gửi lời thăm hỏi tới Chủ tịch Mao và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Đến đây hội nghị Liễu Châu đã đạt được sự đồng thuận giữa hai bên Trung Quốc-Việt Nam. Chu Ân Lai phát biểu lần cuối cùng: Xin cảm ơn lời thăm hỏi của Hồ Chủ tịch gửi Mao Chủ tịch. Chúng tôi hoàn toàn tiếp thu kết luận mà Hồ Chủ tịch vừa nói, trừ phần khen ngợi. Chúng tôi ai ai cũng có khuyết điểm và sai lầm, chủ yếu phải dựa vào sức mạnh tập thể.

Phiên họp lần thứ 8 tiến hành vào tối hôm mùng 5 tháng 7, thời gian tương đối ngắn, chủ yếu bàn vấn đề khi thực hiện ngừng bắn, quân đội Việt Nam tiếp quản các đô thị sẽ gặp những tình huống mới. Hội nghị đã thảo luận và sửa đổi bản “Bố cáo yên dân khi vào đô thị” do La Quý Ba dự thảo gồm 4 điều, thảo luận và sửa đổi văn bản “Chính sách tiếp quản đô thị” do La Quý Ba dự thảo. Sau cùng, Chu Ân Lai tuyên bố kết thúc hội nghị.

Tại hội nghị Liễu Châu, Chu Ân Lai đã có những phát biểu trình bày các vấn đề một cách thấu triệt, kiên nhẫn giải thích mọi vấn đề, để lại ấn tượng sâu sắc cho người dự họp. Tình bạn giữa Chu Ân Lai với Hồ Chí Minh luôn thể hiện trong hội nghị. Chẳng hạn khi thấy đồng hồ đeo tay của Hồ Chí Minh bị hỏng, Chu Ân Lai đã lập tức bảo La Quý Ba kiếm cho Hồ Chủ tịch một chiếc đồng hồ khác. La Quý Ba làm theo, đưa cho Chu Ân Lai một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ rất tốt. Khi được Thủ tướng Chu tặng món quà này, Hồ Chí Minh không từ chối, nói “Cảm ơn” và đeo đồng hồ lên tay. Trong ấn tượng của La Quý Ba, chiếc đồng hồ ấy được Hồ Chí Minh dùng rất lâu.[2]

Mã Liệt (sau này làm Đại sứ Trung Quốc tại Hungary) cho rằng công việc quan trọng nhất của hội nghị Liễu Châu là “Vạch đường phân giới”, vấn đề trung tâm là làm cho Pháp rời khỏi Đông Dương đồng thời không thể cho Mỹ nhảy vào can thiệp. Đây là ý tưởng rõ ràng của Chu Ân Lai khi đến Liễu Châu. Kết quả, hội nghị này đã hoàn toàn thực hiện được ý tưởng của ông.[3]

Chiều ngày 6 tháng 7, Chu Ân Lai về đến Bắc Kinh. Tờ “Nhân dân nhật báo” ngày 8 tháng 7 đăng trên trang nhất “Công báo của cuộc hội đàm Trung Quốc-Việt Nam”, toàn văn như sau:

Từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954, Chu Ân Lai Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Hồ Chí Minh Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam đã tiến hành hội đàm tại biên giới Trung-Việt. Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao đổi ý kiến về vấn đề lập lại hòa bình tại Đông Dương và các vấn đề liên quan của hội nghị Geneva. Tham gia hội nghị còn có Hoàng Văn Hoan, Đại sứ Việt Nam DCCH tại Trung Quốc, và Kiều Quán Hoa, Cố vấn của phái đoàn CHND Trung Hoa tại hội nghị Geneva.


Hình: Toàn cảnh Hội nghị Geneva về Đông Dương tại Thụy Sĩ (1954). Nguồn: Ảnh tư liệu 

[1] Ghi chép phỏng vấn Mã Liệt, do tác giả thực hiện tại Bắc Kinh ngày 29/5/1998.

[2] Ghi chép phỏng vấn La Quý Ba, do tác giả thực hiện tại Bắc Kinh ngày 18/4/1990 và dẫn từ tư liệu có liên quan tới hội nghị Liễu Châu do La Quý Ba lưu giữ.

[3] Ghi chép phỏng vấn Mã Liệt, do tác giả thực hiện tại Bắc Kinh ngày 29/5/1998.