Nguồn: João Pedro Stédile, 若昂·佩德罗·斯特迪勒:在巴西所有需要的变革中,最迫切的是土改, Guancha, 23/09/2025.
Biên dịch: Lê Thị Thanh Loan
Năm 2025, Brazil – một cường quốc về xuất khẩu lương thực – một lần nữa được xóa khỏi “Bản đồ đói nghèo thế giới” của Liên Hợp Quốc, đánh dấu một cột mốc quan trọng mới trong cuộc chiến chống đói nghèo của quốc gia này. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra câu hỏi: Tình hình an ninh lương thực của Brazil thực sự ra sao? Tại sao ở một cường quốc xuất khẩu lương thực hàng đầu lại có nhiều người phải chịu cảnh đói nghèo đến vậy?
Về vấn đề này, Guancha đã liên hệ với João Pedro Stédile – lãnh đạo Phong trào Công nhân Nông thôn Brazil (MST) – để lắng nghe chia sẻ của ông từ góc nhìn của Brazil về tác động của một thế giới bất công đối với nền kinh tế Brazil, cũng như những triển vọng hướng tới con đường cải cách trong tương lai của quốc gia này.
Hỏi: Với tư cách là lãnh đạo của Phong trào Công nhân Nông thôn Brazil (MST), chắc hẳn ông có những hiểu biết sâu sắc về vấn đề đất đai. Vào những năm đầu của Chiến tranh Lạnh, trong bối cảnh các phong trào cộng sản, chúng ta đã chứng kiến một làn sóng cải cách ruộng đất ở các nước thuộc Thế giới thứ ba, bao gồm cả Brazil, nhưng đều chưa triệt để. Sau hàng chục năm nhìn lại, công cuộc cải cách ruộng đất ở Brazil chỉ đạt được những kết quả rất hạn chế, phần lớn đất đai vẫn nằm trong tay một số ít người. Ông đánh giá ra sao về cuộc đấu tranh giành đất đai ở Brazil trong vài thập kỷ qua? Và sự tập trung đất đai đã làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo ở quốc gia này như thế nào?
Đáp: Trước tiên, tôi cần giải thích với độc giả của Guancha và công chúng Trung Quốc rằng: Brazil là quốc gia trải qua thời kỳ nô lệ dài nhất thế giới – một giai đoạn kéo dài suốt 400 năm và đã để lại dấu ấn sâu sắc trong xã hội chúng tôi. Khi chúng tôi thoát khỏi chế độ nô lệ vào cuối thế kỷ 19, điều tự nhiên nhất lẽ ra phải là phân chia đất đai cho những người từng là nô lệ – trên thực tế, ngay cả Mỹ cũng đã làm như vậy. Tuy nhiên ở Brazil, biện pháp này đã không được thực hiện, qua đó dẫn đến bất bình đẳng xã hội dai dẳng cho đến ngày nay.
Thứ hai, như bạn đã đề cập, trong thế kỷ 20, ở nhiều quốc gia trên thế giới đã xuất hiện các cuộc cải cách ruộng đất dưới sự thúc đẩy của giai cấp tư sản công nghiệp – những người cần mở rộng thị trường nội địa cho sản phẩm của mình. Việc tiến hành cải cách ruộng đất và phân chia đất đai cho nông dân sẽ tạo ra một thị trường nội địa rộng lớn cho các sản phẩm công nghiệp. Nhưng ở Brazil, mãi đến năm 1930, giai cấp tư sản công nghiệp mới xuất hiện, và thay vì ưu tiên cải cách ruộng đất, họ đã hình thành liên minh với các đại địa chủ. Những đại địa chủ này tiếp tục tập trung vào xuất khẩu cà phê, đường và thịt bò, và cho đến ngày nay, họ vẫn tiếp tục sử dụng nguồn thu từ xuất khẩu nông sản để tài trợ cho quá trình công nghiệp hóa.
Kết quả cuối cùng chính là tình trạng mà chúng ta đang thấy ngày nay: Quyền sở hữu đất đai tập trung cao độ. Một mặt, các đại địa chủ tuy chỉ chiếm 1% dân số nông thôn nhưng kiểm soát tới hơn 50% đất đai của Brazil, khiến đất nước chúng tôi trở thành quốc gia có mức độ tập trung đất đai lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Nam Phi. Mặt khác, điều này đã tạo ra một xã hội cực kỳ bất bình đẳng. Trong số hơn 200 triệu người dân Brazil, chỉ khoảng 1% là người giàu, trong khi 90% sống trong cảnh nghèo khó. Ngay cả ngày nay, dù là một trong những quốc gia sản xuất lương thực lớn nhất thế giới, 60 triệu người Brazil vẫn rơi vào tình trạng mất an ninh lương thực.
Hỏi: Ông từng chỉ trích mô hình kinh tế tân tự do đã làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo đói ở Brazil. Theo ông, sau chính quyền Bolsonaro, liệu chính sách kinh tế của chính quyền Lula có thực sự đảo ngược được xu hướng này không? Những trở ngại mang tính cấu trúc nào vẫn còn tồn tại?
Đáp: Trước hết, điều quan trọng cần làm rõ là chính quyền Lula lên nắm quyền nhờ một liên minh rộng rãi đánh bại các phe cực hữu và phát xít, nhưng chiến thắng này không dựa trên một cương lĩnh mang tính cải cách triệt để. Chúng tôi vẫn đang đối mặt với những thách thức mang tính cấu trúc lâu dài trong nông nghiệp. Thực tế ở Brazil cho thấy, hiện nay tồn tại ba mô hình nông nghiệp cạnh tranh với nhau.
Đầu tiên là mô hình đại điền trang kiểu cướp bóc. Các đại địa chủ liên minh với tư bản tài chính, chuyên cướp bóc tài nguyên thiên nhiên – họ chiếm đoạt khoáng sản, đa dạng sinh học, rừng, nguồn nước và đất đai để tích lũy của cải, và về bản chất không tham gia vào các hoạt động sản xuất. Thứ hai là mô hình nông nghiệp doanh nghiệp. Các chủ nông trại tư bản chủ nghĩa Brazil hình thành liên minh với các tập đoàn thương mại nông sản quốc tế và tư bản tài chính. Thứ ba là mô hình nông nghiệp hộ gia đình, với 5 triệu hộ nông dân dựa vào những mảnh đất nhỏ để sản xuất lương thực cho thị trường nội địa.
Do một số thế lực nông nghiệp doanh nghiệp ủng hộ chính quyền Lula, thậm chí Bộ trưởng Nông nghiệp đương nhiệm cũng xuất thân từ nhóm này, nên việc Lula đắc cử không làm thay đổi cục diện cùng tồn tại của ba mô hình này. Mặc dù chính phủ đã thực hiện một số điều chỉnh đối với các chính sách nông nghiệp chống đói nghèo – khi Lula nhậm chức vào tháng 1 năm 2023, mỗi ngày có tới 30 triệu người Brazil phải chịu đói và 70 triệu người phải đối mặt với nguy cơ mất an ninh lương thực (tức là chất lượng bữa ăn thấp, phụ thuộc vào thực phẩm siêu chế biến, nhu cầu dinh dưỡng không được đáp ứng). Hiện tại, chính quyền Lula chủ yếu đạt được hiệu quả trong các cơ chế phân phối và trợ cấp hàng tháng, tạm thời giúp 30 triệu người thoát khỏi cảnh đói cùng cực và chuyển sang nhóm mất an ninh lương thực. Nhưng vấn đề vẫn chưa thực sự được giải quyết.
Mâu thuẫn cơ bản nằm ở việc vẫn có tới 70 triệu người Brazil không thể tiếp cận chế độ ăn uống đáp ứng nhu cầu sinh lý cơ bản của họ. Vấn đề này chỉ có thể được giải quyết nếu chúng tôi có đủ năng lực để thay đổi mô hình đại điền trang và mô hình nông nghiệp doanh nghiệp. Đó chính là lý do chúng tôi tiếp tục thúc đẩy cải cách ruộng đất, thông qua cải cách này để phá bỏ hệ thống đại điền trang, làm suy yếu các tập đoàn nông nghiệp doanh nghiệp, từ đó củng cố nền nông nghiệp hộ gia đình lấy sản xuất lương thực làm gốc.
Hãy lấy một ví dụ điển hình cho độc giả Trung Quốc: Trong 10 năm qua, sản lượng đậu nành xuất khẩu của Brazil đã tăng 900%, nhưng sản lượng lương thực chính trong nước là gạo và đậu lại giảm 30%. Trong bối cảnh dân số tiếp tục gia tăng, nguồn cung lương thực chính của chúng tôi lại giảm dần qua từng năm.
Hỏi: Là một cường quốc về xuất khẩu nông sản, Brazil thường bị hiểu lầm là miễn nhiễm với nạn đói. Tình cảnh khó xử tương tự cũng tồn tại ở một số quốc gia xuất khẩu nông sản lớn khác như Ấn Độ và Argentina. Theo ông, đâu là nguyên nhân gốc rễ của mâu thuẫn này? Điều đó có liên hệ gì với cấu trúc của hệ thống quốc tế? Ông nhìn nhận ra sao về tác động của thị trường lương thực quốc tế (bao gồm cây trồng biến đổi gen và sự phụ thuộc vào thuốc trừ sâu) đối với chủ quyền lương thực của Brazil?
Đáp: Việc sử dụng hạt giống và thuốc trừ sâu biến đổi gen trong nông nghiệp Brazil là một sản phẩm của mô hình nông nghiệp doanh nghiệp. Điều này là do các công ty quốc tế thu mua đậu nành, đồng thời cũng bán hạt giống và thuốc trừ sâu biến đổi gen cho nông dân. Nghĩa là trên thực tế, họ kiểm soát toàn bộ chuỗi sản xuất. Đây chính là bản chất của mô hình nông nghiệp doanh nghiệp.
Về cơ bản, đây là một mô hình vận hành của đại tư bản quốc tế, hoàn toàn không có trách nhiệm với người dân và đất nước Brazil. Hậu quả tồi tệ nhất của cây trồng biến đổi gen và thuốc trừ sâu là hủy hoại đa dạng sinh học tự nhiên, làm mất cân bằng điều kiện khí hậu, dẫn đến những biến đổi khí hậu mà chúng ta đang chứng kiến trên vùng lãnh thổ rộng lớn này. Nơi từng có sự đa dạng cực kỳ phong phú của động thực vật và vi sinh vật này, giờ đây đã bị xâm lấn bởi cây trồng biến đổi gen và thuốc trừ sâu, chỉ còn lại dạng cây trồng độc canh như đậu nành, bông và mía. Mô hình canh tác độc canh này đang gây ra vô số vấn đề về khí hậu cho Brazil.
Điều này rõ ràng cũng đe dọa chủ quyền lương thực. Phần lớn đất nông nghiệp ở Brazil được sử dụng để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. 90% đất canh tác trong nước trồng đậu nành, ngô, mía, bông, hoặc được sử dụng để chăn thả gia súc, tất cả những sản phẩm này đều được đưa ra thị trường quốc tế. Nếu thúc đẩy nông nghiệp hộ gia đình vốn đảm bảo chủ quyền lương thực, chúng tôi có thể trồng hơn 360 loại rau truyền thống để nuôi sống người dân. Tuy nhiên, trong mô hình tư bản quốc tế, những cây trồng này đã bị gạt ra ngoài lề.
Vì vậy, có thể khẳng định rằng không hề có cái gọi là “nền nông nghiệp Brazil”, mà chỉ có hệ thống nông nghiệp Brazil do tư bản quốc tế chi phối. Những tập đoàn đa quốc gia đang kiểm soát thị trường nông nghiệp toàn cầu chỉ coi đất đai của chúng tôi như một công cụ để kiếm lợi nhuận và tích lũy của cải.
Hỏi: Ông đã đề cập đến hiện trạng lĩnh vực nông nghiệp đang bị đại tư bản chi phối. Vậy theo ông, mô hình sản xuất dựa trên thương mại hàng hóa quốc tế hiện tại của Brazil, có khác biệt căn bản nào so với thời kỳ thuộc địa thế kỷ 19 (ví dụ, Argentina, Brazil và Ấn Độ bị buộc phải sản xuất theo nhu cầu của thực dân)?
Đáp: Đây là một câu hỏi rất sâu sắc. Về bản chất, Brazil chưa từng thực sự thoát khỏi thân phận thuộc địa của tư bản quốc tế. Trong bốn thế kỷ, chúng tôi là thuộc địa của Bồ Đào Nha, với sứ mệnh chính là xuất khẩu cà phê, đường, da thuộc, ca cao và khoáng sản sang châu Âu. Đến thế kỷ 20, ở một mức độ nào đó, chúng tôi lại trở thành thuộc địa của Mỹ và vẫn chưa xây dựng được vị thế một quốc gia thực sự độc lập về kinh tế.
Tính chất thuộc địa này thể hiện đặc biệt rõ trong nông nghiệp. Trong bốn thế kỷ, mô hình đồn điền mà tư bản quốc tế áp dụng trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản thương nghiệp và công nghiệp luôn dựa trên các đơn vị sản xuất quy mô lớn với cây trồng độc canh để xuất khẩu, cùng lao động nô lệ. Mô hình này được chủ nghĩa tư bản thương nghiệp châu Âu áp dụng trên khắp phương Nam toàn cầu: Từ Brazil, Mỹ Latinh, Nam Phi và nhiều nước châu Phi, cho tới các khu vực ở Đông Nam Á nằm dưới sự kiểm soát của Anh, Pháp, Hà Lan.
Mô hình nông nghiệp doanh nghiệp ngày nay chẳng qua chỉ là phiên bản hiện đại hóa của đồn điền. Nó không còn được gọi là “đồn điền” nữa, chỉ vì chế độ nô lệ hay hình thức lao động nô dịch (như lao động khế ước ở Đông Nam Á) đã bị bãi bỏ. Xét về mặt tổ chức sản xuất, các nhà tư bản chỉ đơn giản là thay thế lao động nô lệ bằng thuốc trừ sâu và máy móc hạng nặng: Họ dùng những cỗ máy ngày càng khổng lồ và hóa chất nông nghiệp để thay thế sức người. Xét về kỹ thuật nông nghiệp, điều này hoàn toàn không cần thiết và chỉ nhằm mục đích tránh phải thuê mướn lao động – giới tư bản ghét trả lương và đóng bảo hiểm xã hội, và càng sợ đình công hơn, trong khi máy móc và thuốc trừ sâu thì không bao giờ đình công.
Hỏi: Ông có cho rằng Brazil cần những cải cách cấp tiến hơn để giải quyết vấn đề đói nghèo, chẳng hạn như trưng thu đất nhàn rỗi hoặc hạn chế sự độc quyền của các tập đoàn nông nghiệp khổng lồ?
Đáp: Vấn đề nạn đói chỉ là biểu hiện cực đoan nhất của nghèo đói và bất bình đẳng xã hội. Chính phủ có thể tạm thời hỗ trợ tài chính cho các gia đình nghèo để họ mua lương thực, nhưng điều này vừa không giải quyết được nghèo đói (tức là người dân không có được những điều kiện cơ bản cho một cuộc sống đàng hoàng), vừa không thể xóa bỏ bất bình đẳng xã hội mà chúng tôi đang phải đối mặt.
Brazil thực sự cần một sự thay đổi căn bản và sâu sắc, thậm chí có thể gọi là một cuộc cách mạng xã hội, giống như những gì Trung Quốc đã trải qua từ năm 1927 đến năm 1949. Trong lịch sử, đất nước chúng tôi đã nhiều lần thử cải cách cấp tiến: Vào các năm 1935, 1953, 1964 và 1989 đều từng có những nỗ lực như vậy. Nhưng như người Mexico vẫn nói, Mỹ Latinh quá xa Chúa, mà lại quá gần Mỹ. Các nhóm lợi ích của Mỹ luôn bóp nghẹt những nỗ lực cải cách xã hội của chúng tôi, thậm chí không ngần ngại phát động các cuộc đảo chính quân sự.
Tôi tin rằng giải pháp để giải quyết các vấn đề mang tính cấu trúc mà 200 triệu người Brazil đang phải đối mặt cuối cùng sẽ xuất hiện. Hiện vẫn còn 70 triệu người lao động không có việc làm chính thức, 9 triệu thanh niên từ 16-25 tuổi vừa không có việc làm vừa không được đến trường, và 8 triệu lao động trưởng thành không biết chữ. Chỉ có một cuộc vận động toàn quốc quy mô lớn mới có thể tạo ra những thay đổi triệt để. Trong tất cả những cải cách mà Brazil cần, con đường hiệu quả nhất để đạt được công bằng xã hội ở nông thôn chính là cải cách ruộng đất – tức bảo đảm mỗi hộ nông dân có quyền tiếp cận đất đai và phát triển nông nghiệp sinh thái.
Hỏi: Nếu phe cánh hữu trở lại nắm quyền trong tương lai, phong trào cánh tả của Brazil nên làm gì để bảo vệ những thành tựu cải cách kinh tế của mình? Ông có ý tưởng gì cho chiến lược dài hạn nhằm xóa đói giảm nghèo ở Brazil?
Đáp: Trong ngắn hạn, người dân Brazil và các thế lực cánh tả đang dốc sức để thúc đẩy Tổng thống Lula tái đắc cử trong cuộc bầu cử tháng 10/2026. Cần biết rằng, phe cánh hữu tuy tạm thời mất chính quyền liên bang, nhưng vẫn kiểm soát kinh tế, tư pháp và truyền thông. Nếu phe cánh hữu giành lại chính quyền liên bang, điều này có thể sẽ gây ra bất ổn xã hội, bạo lực leo thang và sự bất định toàn diện về tương lai.
Do đó, mục tiêu trước mắt của chúng tôi, với tư cách là lực lượng nhân dân, là đảm bảo Lula tái đắc cử, qua đó tạo ra một môi trường chính trị thuận lợi hơn cho việc tổ chức quần chúng, đoàn kết giai cấp công nhân và tích lũy sức mạnh cho tương lai. Chúng tôi phải tiến hành đối thoại xã hội và huy động giai cấp công nhân dựa vào cái mà chúng tôi gọi là “Kế hoạch Nhân dân” – một bản thiết kế mới cho Brazil. Rõ ràng, Brazil trong ngắn hạn vẫn chưa có đủ điều kiện chín muồi cho một cuộc cách mạng xã hội hay cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tuy vậy, chúng tôi cần xây dựng một cương lĩnh, một bản đề xuất thuộc về người dân Brazil. Kế hoạch này sẽ hướng đến việc xóa bỏ bất bình đẳng xã hội và tạo điều kiện mở ra trong tương lai một con đường xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Brazil.
Hỏi: Là thành viên của Hội đồng Dân sự BRICS, ông có cho rằng các nước BRICS (như Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Phi) có thể giúp Brazil giảm bớt nạn đói thông qua hợp tác an ninh lương thực, chia sẻ công nghệ nông nghiệp hoặc chính sách thương mại không?
Đáp: Như tôi đã nói, chỉ riêng cải cách nông nghiệp không thể giải quyết được các vấn đề đói nghèo, khủng hoảng mô hình nông nghiệp, sự độc quyền của các tập đoàn nông nghiệp và sự kiểm soát hàng hóa cơ bản của tư bản quốc tế ở Brazil. Bởi kẻ nắm quyền kiểm soát thể chế thương mại, hàng hóa và toàn bộ hệ thống hiện nay chính là đại tư bản quốc tế. Trong các cuộc thảo luận tại Hội đồng Dân sự BRICS, chúng tôi nhấn mạnh rằng các nước BRICS phải thúc đẩy những thay đổi căn bản trong quan hệ kinh tế quốc tế, trước hết là thoát khỏi sự thống trị của đồng USD.
Chúng ta cần từng bước từ bỏ đồng USD với tư cách là đồng tiền quốc tế, nó chỉ nên là đồng nội tệ của riêng Mỹ. Chúng ta cần xây dựng cơ chế thanh toán bằng các đồng tiền khác, hoặc như Tổng thống Lula đã chủ trương tại Hội nghị Thượng đỉnh BRICS, tạo ra một loại tiền tệ thương mại quốc tế mới. Đồng thời, cũng cần thay thế hệ thống SWIFT – kênh tài chính do Mỹ kiểm soát hiện đang chi phối dòng vốn toàn cầu.
Mặt khác, các nước BRICS phải thoát khỏi khuôn khổ thương mại tự do mà WTO áp đặt. Thương mại quốc tế nên dựa trên những quy tắc hợp tác kiểu mới giữa các quốc gia, sao cho tất cả các quốc gia đều được hưởng lợi, thay vì phục tùng lợi ích của các tập đoàn đa quốc gia hiện đang lũng đoạn thị trường toàn cầu.
Các nước BRICS cũng nên thúc đẩy thúc đẩy cộng đồng quốc tế triển khai những biện pháp thiết thực để cứu lấy hệ sinh thái tự nhiên. Một kế hoạch toàn cầu (ít nhất là trong phạm vi phương Nam toàn cầu) cho việc tái trồng rừng quy mô lớn là rất cấp thiết. Nếu không hành động ngay, nhân loại sẽ phải đối mặt với nguy cơ tồn vong, và điều này không hề được phóng đại.
Mùa hè năm ngoái, ở châu Âu đã có 75.000 người chết vì nắng nóng, nâng tổng số người tử vong do biến đổi khí hậu trên toàn cầu lên 700.000 người trong thập kỷ qua. Nhiệt độ toàn cầu đã vượt ngưỡng 1,5°C, và các nhà khoa học cảnh báo nếu nhiệt độ tăng lên 3°C, mực nước biển dâng cao sẽ nhấn chìm nhiều thành phố ven biển. Đối với phần lớn dân cư hiện sống ở các vùng ven biển có nguy cơ của Brazil, cuộc khủng hoảng khí hậu đã trở thành mối đe dọa cấp bách trước mắt.
Các hội nghị khí hậu thường niên của Liên Hợp Quốc (COP30 sẽ được tổ chức tại Brazil vào tháng 11) thực chất chỉ là một kiểu “du lịch của quan chức chính phủ”, là màn kịch để giới tư bản kiếm lời từ “tín chỉ carbon”. Các chính phủ trong khối BRICS có trách nhiệm xây dựng một kế hoạch toàn cầu về phục hồi thảm thực vật và kiềm chế mô hình độc canh toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia.
Cuối cùng, các nước BRICS phải hợp lực để kiềm chế xung đột vũ trang. Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng toàn cầu của chủ nghĩa tư bản hiện nay, tổ hợp công nghiệp-quân sự đang tìm cách đẩy cuộc khủng hoảng sang nơi khác và khởi động một chu kỳ tích lũy tư bản mới, bằng cách gây chiến tranh, phá hủy tư bản và hủy diệt dân số. Đây chính là nguyên nhân sâu xa khiến họ kích động chiến tranh ở Ukraine và Syria, sự tàn phá Libya, và giờ là các cuộc chiến ở Palestine, Sudan và Congo.
Làm thế nào để ngăn chặn tất cả những điều này? Chỉ các nước BRICS mới có thể đoàn kết lại. Lực lượng cánh tả Brazil và Hội đồng Dân sự BRICS chúng tôi hy vọng rằng, các chính phủ BRICS sẽ dũng cảm đứng lên đối đầu với Mỹ và NATO, đồng thời triển khai các chính sách quyết liệt hơn để chấm dứt chiến tranh. Đây là cách duy nhất để cứu lấy sinh mạng con người, bảo vệ hòa bình và đạt được một nền hòa bình chân chính dựa trên việc phát triển năng lực sản xuất và đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người dân. Mỹ hiện đang yêu cầu các nước châu Âu chi 5% GDP cho quân bị. Hành động điên rồ này phải bị ngăn chặn.
Hỏi: Ông đã đề cập đến quá trình phi USD hóa. Xét đến những cuộc thảo luận trước đây giữa các nước BRICS và khái niệm “đồng tiền BRICS” mà Nga đề xuất năm ngoái, ông cho rằng cục diện tài chính thế giới trong tương lai sẽ như thế nào?
Đáp: Đây là một vấn đề vô cùng phức tạp và cũng đòi hỏi những giải pháp phức tạp, nhưng bước đầu tiên phải là phi USD hóa trong thương mại ở phương Nam toàn cầu. Mỹ từ lâu đã coi đồng USD như một công cụ để bóc lột người lao động ở phương Nam toàn cầu. Hằng tuần, họ dùng USD để sang Brazil mua đất và nhà máy, nhưng những đồng USD này thực chất chỉ là những tờ giấy do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ in ra một cách tùy tiện, và cuối cùng lại tiếp tục nuôi dưỡng tổ hợp công nghiệp-quân sự thông qua nợ. Do đó, phá vỡ thế độc quyền của đồng USD là nhiệm vụ hàng đầu.
Bước thứ hai là thiết lập một cơ chế mới để thay thế SWIFT. Giải pháp này trông thì có vẻ nhanh hơn, nhưng thực chất đây là một hệ thống ngân hàng điện tử không đòi hỏi trình độ kỹ thuật quá cao.
Bước thứ ba là thúc đẩy việc sử dụng đồng nội tệ trong mọi giao dịch thương mại song phương.
Tôi cho rằng trong tương lai, các quốc gia nên tạo ra một loại tiền tệ mới. Nó không nhất thiết phải là tiền giấy, cũng không nhằm thay thế đồng nội tệ. Thay vào đó, nó nên đóng vai trò là một chuẩn tham chiếu chung cho tất cả các đồng tiền quốc gia. Đây là một phần trong số những ý tưởng mà chúng tôi đã thảo luận tại Hội đồng Dân sự BRICS, nhưng chúng tôi cũng hiểu rằng đây là một vấn đề cực kỳ phức tạp, đòi hỏi phải đầu tư thêm. Tôi hy vọng chính phủ các nước BRICS sẽ sớm thành lập một đội ngũ gồm các nhà kinh tế từ mỗi quốc gia, cũng như thành lập một tổ chức thường trực chuyên nghiên cứu và thiết kế phương án tài chính thay thế đồng USD.
Hỏi: Ông đánh giá thế nào về hợp tác Trung Quốc-Brazil trong lĩnh vực nông nghiệp (ví dụ như thương mại đậu nành)? Ngoài thương mại trực tiếp, những lĩnh vực hợp tác nào khác có thể được mở rộng trong tương lai, chẳng hạn như chính sách đất đai hay sản xuất nông nghiệp?
Đáp: Trước hết, cần nhấn mạnh rằng chúng tôi có thái độ phê phán đối với sự gia tăng xuất khẩu đậu nành và bột giấy sang Trung Quốc. Chúng tôi hy vọng Trung Quốc có thể dần dần tự cung tự cấp đậu nành và phát triển các sản phẩm thức ăn chăn nuôi nội địa. Hiện tại, Brazil xuất khẩu đậu nành dựa trên mô hình nông nghiệp doanh nghiệp, do các tập đoàn đa quốc gia như Cargill, Bunge và Archer Daniels Midland (ADM) kiểm soát. Trong số năm nhà xuất khẩu đậu nành hàng đầu sang Trung Quốc, chỉ có COFCO là doanh nghiệp của Trung Quốc. Vì vậy, việc mua đậu nành Brazil thực chất là giúp tư bản quốc tế kiểm soát thị trường đậu nành toàn cầu, chứ không có lợi cho người dân Brazil.
Tương tự, sự gia tăng xuất khẩu bột giấy cũng không mang lại lợi ích cho người dân Brazil. Việc trồng ồ ạt một loài bạch đàn duy nhất đã phá hủy đa dạng sinh học, với 500.000 ha đất chỉ còn những cánh rừng bạch đàn bạt ngàn, điều này đã làm gián đoạn nghiêm trọng hệ thống mưa và cân bằng khí hậu. Để xuất khẩu bột giấy sang Trung Quốc, Brazil đã xây dựng nhà máy bột giấy lớn nhất thế giới, do tập đoàn đa quốc gia kiểm soát. Chúng tôi hy vọng Trung Quốc sẽ ứng dụng công nghệ tiên tiến để phát triển các vật liệu bao bì thay thế cho bột giấy.
Tuy nhiên, vấn đề này cũng có mặt tích cực: Trung Quốc có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các nước phương Nam toàn cầu xóa đói giảm nghèo và đạt được chủ quyền lương thực – những mục tiêu mà khó có thể đạt được nếu không có sự hỗ trợ về khoa học và công nghệ của Trung Quốc.
Tôi cho rằng những thành tựu khoa học công nghệ mà Trung Quốc đã tích lũy được không nên bị sao chép. Chúng tôi kỳ vọng Trung Quốc, dựa trên các giá trị xã hội chủ nghĩa lấy hợp tác quốc tế làm cốt lõi – vốn cũng bắt nguồn từ gen văn minh Trung Hoa – sẽ thúc đẩy chuyển giao công nghệ và giúp người dân ở phương Nam toàn cầu giải quyết các nhu cầu cơ bản như lương thực, quần áo và giao thông công cộng.
Hiện tại, mô hình giao thông dựa vào ô tô cá nhân kiểu Mỹ được du nhập vào Brazil không thể giải quyết vấn đề giao thông công cộng ở Brazil. Nếu Trung Quốc có thể phổ biến công nghệ đường sắt cao tốc của mình đến các nước thuộc phương Nam toàn cầu, điều đó sẽ đem lại một sự biến đổi căn bản cho thế giới. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong lĩnh vực nông nghiệp cũng có giá trị không kém. Trung Quốc có khoảng 8.000 nhà sản xuất máy móc nông nghiệp phục vụ kinh tế tiểu nông, trong khi toàn bộ các nhà sản xuất máy móc nông nghiệp ở Brazil đều đến từ châu Âu và Mỹ, chỉ chuyên sản xuất máy móc phù hợp với các trang trại lớn. Chúng tôi đang rất cần các thiết bị nông nghiệp thích hợp với mô hình tiểu nông từ 1-10 ha, đây cũng là nhu cầu phổ biến trên khắp Mỹ Latinh, châu Phi và Nam Á.
Như tôi từng đề cập trong ví dụ về nông nghiệp sinh thái, Trung Quốc có ưu thế vượt trội về công nghệ sản xuất phân bón hữu cơ (chẳng hạn như tận dụng phế phẩm từ cá). Tôi từng có dịp đến thăm phòng thí nghiệm của Đại học Nông nghiệp Trung Quốc, công nghệ sản xuất phân bón hữu cơ siêu tốc trong 7 ngày (trong khi phân hủy tự nhiên cần đến một năm rưỡi) của họ thực sự là đột phá mang tính cách mạng. Ở Brazil và Mỹ Latinh, những nguồn tài nguyên này đều bị vứt bỏ một cách lãng phí.
Tôi tràn đầy niềm tin vào tương lai. Tôi tin rằng Trung Quốc có thể giúp Brazil, Mỹ Latinh và cả phương Nam toàn cầu đạt được chủ quyền lương thực. Tôi hy vọng tinh thần của chủ nghĩa quốc tế mà Mao Trạch Đông chủ trương sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đây chính là sứ mệnh của nền văn minh Trung Hoa: Giúp nhân dân các nước thoát khỏi ách bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Hỏi: Hai câu hỏi ngắn cuối cùng: Thứ nhất, ông đánh giá thế nào về Tổng thống Lula? Thứ hai, chúng tôi nhận thấy ông công nhận con đường phát triển chính trị của Trung Quốc và nhắc đến chính sách của Mao Trạch Đông. Ông mong muốn Trung Quốc chia sẻ những kinh nghiệm lịch sử nào về cải cách ruộng đất và phong trào công nông?
Đáp: Tôi xin trả lời câu hỏi thứ hai trước. Trung Quốc đã thực hiện cuộc cách mạng xã hội vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, và chỉ riêng điều này thôi cũng đã đáng để cả thế giới nghiên cứu. Tuy nhiên, kinh nghiệm của Trung Quốc chỉ thích hợp với riêng Trung Quốc. Nhân dân các nước không nên chỉ sao chép mô hình của các quốc gia khác mà nên nghiên cứu và học hỏi. Tuy nhiên, kiến thức khoa học và công nghệ thì mang tính phổ quát. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, Trung Quốc có thể giúp các nước phương Nam toàn cầu vượt qua rào cản phát triển thông qua hợp tác công nghệ, thay vì áp đặt mô hình. Các doanh nghiệp châu Âu và Mỹ mang công nghệ đến nhằm tăng cường bóc lột và thậm chí cướp đi việc làm. Trong khi đó, Trung Quốc theo đuổi triết lý “cùng có lợi” của Khổng Tử. Mô hình hợp tác dựa trên việc đầu tư nguồn lực công vào nghiên cứu khoa học này chính là nền tảng của hợp tác công nghệ.
Gần đây, Phong trào Công nhân Nông thôn chúng tôi đã gửi thư tới Đại sứ Trung Quốc tại Brazil, đề nghị được cung cấp hai loại hạt giống lúa. Một loại là lúa nương, có thể cho năng suất lên tới 7 tấn/ha ở các vùng bán khô hạn. Nếu được đưa vào châu Phi và Brazil, giống lúa này có thể chấm dứt nạn đói. Ngoài ra, trong chuyến khảo sát tại Trung Quốc, tôi còn phát hiện được một giống lúa mì cao 60 cm với năng suất rất cao, lên tới từ 7 tấn đến 8 tấn/ha. Nếu được phổ biến rộng rãi, nó cũng có thể giải quyết vấn đề lương thực ở những quốc gia phụ thuộc nhiều vào lúa mì. Có thể nói, chỉ riêng hai giống lúa này cũng đủ để cứu thế giới khỏi nạn đói.
Giờ hãy bàn đến câu hỏi về Brazil: Quá trình đấu tranh của nhân dân luôn sản sinh ra các nhà lãnh đạo. Vào thế kỷ 20, cuộc đấu tranh của nhân dân Brazil đã sản sinh ra Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Brazil Luís Carlos Prestes. Khi ở Trung Quốc, tôi từng thấy bản dịch tiếng Trung cuốn tiểu sử của ông, và lúc đó tôi đã phải cảm thán về bề rộng và chiều sâu của văn hóa Trung Hoa.
Sau ông là Carlos Marighella, Leonel Brizola và João Goulart. Điều đáng nói là khi còn giữ chức Phó Tổng thống, Goulart đã từng đến thăm Trung Quốc và gặp Mao Trạch Đông.
Những năm gần đây, trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tân tự do, Lula đã xuất hiện. Ở các tiểu bang cũng có nhiều nhà lãnh đạo ít được biết đến hơn.
Lula là sản phẩm của cuộc đấu tranh quần chúng tại một thời điểm lịch sử cụ thể. Đặc điểm lớn nhất của ông là tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, nhưng như chính ông từng khẳng định, ông không phải là một chiến lược gia cách mạng xã hội theo nghĩa cánh tả truyền thống, mà là một nhà hòa giải tài ba có khả năng đoàn kết các đảng phái. Khi sự nghiệp chính trị của ông khép lại, nhân dân Brazil và lực lượng cánh tả chúng tôi hy vọng vào sự xuất hiện của một phong trào quần chúng mới để giải quyết những mâu thuẫn mang tính cấu trúc và để chống lại đế quốc Mỹ. Trong chu kỳ đấu tranh mới này, một thế hệ lãnh đạo trẻ trung và năng động hơn chắc chắn sẽ xuất hiện.
Nhiệm vụ hàng đầu hiện nay của phong trào cánh tả chúng tôi là đảm bảo Lula tái đắc cử vào năm 2026. Nhưng đến cuối nhiệm kỳ của ông vào năm 2030, chúng tôi phải đào tạo được một thế hệ chiến sĩ mới sẵn sàng triển khai các cuộc đấu tranh quần chúng và thúc đẩy một xã hội bình đẳng, đảm bảo cho mỗi người dân Brazil các quyền lợi cơ bản về công việc, thu nhập, giáo dục, văn hóa, nhà ở…
Cuối cùng, tôi muốn nói rằng, trí tuệ phương Đông có câu “trăm nghe không bằng một thấy”. Một lần nữa, tôi bày tỏ niềm mong mỏi rằng những người bạn Trung Quốc sẽ đến Brazil để khảo sát thực tế. Xin gửi lời chào trân trọng nhất.