Công nghệ dân sự đang hỗ trợ quân đội Trung Quốc

Nguồn: Cole McFaul và Sam Bresnick, “Civilian Tech Is Powering China’s Military,” Foreign Policy, 07/10/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Những lợi ích mà Bắc Kinh đạt được cuối cùng có thể làm xói mòn lợi thế chiến trường của Washington.

Trung Quốc đã trở thành thế lực thống trị trong các công nghệ mới nổi. Họ là siêu cường năng lượng tái tạo, đang kiểm soát thị trường máy bay không người lái thương mại toàn cầu, và đã lắp đặt số lượng robot công nghiệp nhiều hơn phần còn lại của thế giới cộng lại. Đồng thời, Trung Quốc cũng dồn nguồn lực để vượt mặt Mỹ trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo.

Tuy nhiên, Bắc Kinh không chỉ quan tâm đến việc làm chủ công nghệ dân sự, mà còn tìm cách phát triển năng lực quân sự hàng đầu thế giới bằng cách tích hợp hệ sinh thái thương mại dân sự và cơ sở công nghiệp quốc phòng. Chiến lược này – được gọi là hợp nhất quân sự-dân sự – lấy cảm hứng từ khả năng của Washington trong việc tận dụng đổi mới thương mại để tạo lợi thế trên chiến trường, trong các lĩnh vực như hình ảnh vệ tinh, vi điện tử, và gần đây hơn là các hệ thống hỗ trợ ra quyết định sử dụng AI.

Trong những năm qua, ngành quốc phòng Trung Quốc đã bị ảnh hưởng bởi tình trạng kém hiệu quả và nạn tham nhũng, dẫn đến những câu hỏi về việc liệu Bắc Kinh có thể cải cách cơ sở công nghiệp quốc phòng để áp dụng thành công các công nghệ lưỡng dụng mới nổi, vốn rất quan trọng đối với việc chiến đấu trong các cuộc chiến tương lai hay không. Tuy nhiên, dữ liệu mới cho thấy Quân Giải phóng Nhân dân đang vươn ra ngoài nền tảng truyền thống này để khai thác một nhóm các nhà cung cấp thương mại mới nổi nhằm phát triển các năng lực tiên tiến.

Gần đây, chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu về hợp nhất quân sự-dân sự của Trung Quốc tại Trung tâm An ninh và Công nghệ Mới nổi thuộc Đại học Georgetown, nơi cả hai chúng tôi đều làm việc. Phân tích của chúng tôi về hàng ngàn hợp đồng liên quan đến AI được Quân Giải phóng Nhân dân công bố rộng rãi trong năm 2023 và 2024 mang đến một góc nhìn độc đáo về các tổ chức cung cấp năng lực AI cho quân đội Trung Quốc. Dù một số nhà cung cấp hàng đầu là các tập đoàn quốc phòng nhà nước, nhưng phần lớn các nhà cung cấp đều là các công ty dân sự và các trường đại học đang phát triển các công nghệ lưỡng dụng.

Những phát hiện này là một hồi chuông cảnh tỉnh. Chúng cho thấy Trung Quốc đang mở rộng thành công hệ sinh thái quốc phòng và tận dụng mạng lưới rộng lớn gồm các công ty và viện nghiên cứu để nâng cao năng lực AI. Theo thời gian, những thành tựu này cuối cùng có thể làm xói mòn lợi thế công nghệ của quân đội Mỹ so với Quân Giải phóng Nhân dân.

Suốt nhiều thập kỷ, lĩnh vực quốc phòng của Trung Quốc gần như là lãnh địa độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ. Các tổ chức này hiện vẫn nằm trong số những tổ chức được trao nhiều hợp đồng nhất trong tập dữ liệu của chúng tôi. Tuy nhiên, trong 10 năm qua, vì lo ngại về sự phụ thuộc của Quân Giải phóng Nhân dân vào một nhóm nhỏ các doanh nghiệp nhà nước, Chủ tịch Tập Cận Bình đã cố gắng giảm bớt sự phụ thuộc của quân đội vào họ bằng cách giảm bớt rào cản cho các công ty dân sự trong việc cung cấp cho quân đội Trung Quốc các công nghệ lưỡng dụng.

Phát hiện của chúng tôi cho thấy các khoản đầu tư của Bắc Kinh vào hợp nhất quân sự-dân sự có lẽ đã thành công. Trong số gần 350 đơn vị mà chúng tôi xem xét, gần ba phần tư là các công ty không tự khai báo có liên quan đến sở hữu nhà nước. Nhìn chung, các công ty này giành được nhiều hợp đồng hơn các doanh nghiệp nhà nước. Và đáng chú ý là chúng còn khá non trẻ: Hai phần ba được thành lập sau năm 2010.

Cạnh tranh gia tăng trong lĩnh vực quốc phòng Trung Quốc có thể giúp Quân Giải phóng Nhân dân áp dụng các công nghệ tiên tiến. Ví dụ, iFlytek Digital, vốn có mối quan hệ chặt chẽ với iFlytek, công ty hàng đầu về nhận dạng giọng nói và xử lý ngôn ngữ tự nhiên, đã giành được 20 hợp đồng trong hai năm, bao gồm phần mềm dịch thuật và hệ thống hỗ trợ ra quyết định dựa trên AI. Trong khi đó, công ty phân tích vệ tinh và không gian địa lý PIESAT đang cung cấp các nền tảng mô phỏng chiến đấu và khả năng nhận dạng mục tiêu tự động. Còn Sichuan Tengden thì sản xuất máy bay không người lái mà Quân Giải phóng Nhân dân đã triển khai trong các nhiệm vụ gần Nhật Bản và Đài Loan.

Một vài trong số các công ty này được tích hợp chặt chẽ vào chuỗi giá trị toàn cầu, trong khi số khác hoạt động tại các quốc gia đồng minh với Mỹ. Ví dụ, hồi tháng 3, iFlytek đã công bố kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh tại châu Âu và mở một văn phòng mới tại Paris. Tính đến năm 2023, PIESAT đã có các công ty con tại Australia, Đan Mạch, Singapore, và Malaysia, cùng nhiều quốc gia khác.

Những nhà cung cấp này và các nhà cung cấp phi truyền thống khác đang phát triển các công nghệ có thể nâng cao năng lực tình báo, giám sát, và trinh sát; hợp nhất và phân tích dữ liệu; nhắm mục tiêu; cũng như các hệ thống tự động của Quân Giải phóng Nhân dân. Và họ đang làm những việc này trong lúc bán hàng hóa và dịch vụ cho các khách hàng ngoài quân đội Trung Quốc.

Ranh giới bị xóa nhòa giữa công nghệ dân sự và quân sự cũng lan rộng sang cả lĩnh vực học thuật. Đúng là các tổ chức nghiên cứu hàng đầu có liên hệ với Quân Giải phóng Nhân dân, chẳng hạn như Quốc phòng Thất Tử (7 trường đại học có liên hệ với Bộ Quốc phòng Trung Quốc), đã nhận được một lượng lớn hợp đồng, nhưng một số trường đại học dân sự cũng vậy. Các tổ chức này, mà nhiều trong số đó vốn không liên quan đến lĩnh vực quốc phòng, đã trúng thầu các dự án có ứng dụng quân sự rõ ràng, chẳng hạn như thuật toán điều khiển bầy máy bay không người lái.

Ranh giới mờ nhạt này đặt ra những thách thức cho các nhà hoạch định chính sách và các trường đại học Mỹ. Nếu không có các biện pháp chủ động, sự hợp tác học thuật giữa các tổ chức Mỹ và Trung Quốc có thể vô tình góp phần vào quá trình hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc. Đồng thời, những hạn chế sâu rộng của Mỹ đối với các quan hệ đối tác nghiên cứu với Trung Quốc, vốn đã được nêu trong nhiều đề xuất lập pháp cấp quốc gia và tiểu bang, sẽ là một giải pháp thô sơ cho một vấn đề phức tạp.

Sự đa dạng rõ ràng của nền tảng công nghiệp quốc phòng AI của Trung Quốc đang làm phức tạp thêm nỗ lực của Mỹ nhằm làm chậm quá trình hiện đại hóa của Quân Giải phóng Nhân dân thông qua các lệnh trừng phạt có mục tiêu hoặc kiểm soát xuất khẩu. Việc trừng phạt một số ít doanh nghiệp nhà nước nổi tiếng có thể không có tác động rõ rệt đến năng lực quân sự của Trung Quốc nếu hệ sinh thái nhà cung cấp các công nghệ quan trọng của Quân Giải phóng Nhân dân cũng bao gồm hàng trăm, nếu không muốn nói là hàng nghìn, công ty nhỏ và các viện nghiên cứu.

Washington đang đứng trước một thách thức khó khăn: bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia của Mỹ đồng thời duy trì sự cởi mở cần thiết để luôn dẫn đầu trong đổi mới công nghệ. Việc giải quyết các vấn đề đánh đổi sẽ đòi hỏi nhiều hơn là lệnh cấm toàn diện đối với các trao đổi kinh tế và nghiên cứu.

Để duy trì quan hệ có lợi với Trung Quốc đồng thời giảm thiểu các lo ngại về an ninh, chính phủ Mỹ nên đầu tư vào các công cụ phân tích, dữ liệu, và chuyên môn cần thiết để tiến hành đánh giá rủi ro chi tiết, dựa trên bằng chứng, nhằm đảm bảo rằng sự hợp tác với các thực thể Trung Quốc không vô tình thúc đẩy sự phát triển công nghệ của Quân Giải phóng Nhân dân. Washington nên hợp tác với các công ty và trường đại học Mỹ để xây dựng các thông lệ tốt nhất về chia sẻ thông tin, sàng lọc thẩm định, và thực thi kiểm soát xuất khẩu.

Những sáng kiến này cũng đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ với các đồng minh để đảm bảo rằng các biện pháp bảo vệ an ninh kinh tế và nghiên cứu được nhắm mục tiêu, có thể thực thi, và bền vững. Cách tiếp cận này sẽ giúp cân bằng giữa cảnh giác và cởi mở, đảm bảo an ninh nhưng không cô lập Mỹ khỏi các mạng lưới đổi mới sáng tạo toàn cầu.

Cửa sổ cơ hội để giải quyết hiệu quả những mối đe dọa này đang đóng lại. Nền tảng công nghiệp quốc phòng AI của Quân Giải phóng Nhân dân đang trở nên đa dạng, cạnh tranh, và tinh vi hơn về mặt công nghệ. Chắc chắn, Bắc Kinh cũng có những thách thức của riêng mình khi tiếp nhận công nghệ thương mại. Các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm ưu thế trong nền tảng công nghiệp quốc phòng của Trung Quốc, trong khi các nhà cung cấp phi truyền thống chỉ có thể đấu thầu một số hợp đồng quân sự nhất định.

Hơn nữa, việc Quân Giải phóng Nhân dân mua hàng hóa và dịch vụ liên quan đến AI từ các công ty thương mại không nhất thiết có nghĩa là họ đang áp dụng thành công những công nghệ này. Và làn sóng thanh trừng gần đây nhắm vào các sĩ quan cấp cao của Quân Giải phóng Nhân dân càng làm nổi bật những vấn đề dai dẳng trong ngành quốc phòng Trung Quốc, đe dọa cản trở tham vọng hiện đại hóa quân đội của Bắc Kinh.

Nhưng dữ liệu của chúng tôi cho thấy rõ ràng rằng hợp nhất quân sự-dân sự không còn là một khát vọng ở Bắc Kinh – mà đã trở thành hiện thực. Nếu Mỹ không điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tế đó, họ có thể sẽ phải đối mặt với một Quân Giải phóng Nhân dân không chỉ được trang bị vũ khí tốt hơn, mà còn được kết nối tốt hơn với các động cơ đổi mới dân sự.

Cole McFaul là nhà phân tích cấp cao và là thành viên của chương trình Andrew W. Marshall tại Trung tâm An ninh và Công nghệ mới nổi của Đại học Georgetown.

Sam Bresnick là nghiên cứu viên tại Trung tâm An ninh và Công nghệ mới nổi của Đại học Georgetown.