Châu Âu đang trong chiến tranh

Nguồn: Michael Kimmage, “Europe Is At War,” Foreign Policy, 20/10/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Putin xem Ukraine là một phần trong cuộc đấu tranh lớn hơn với châu Âu. Người châu Âu cũng nên như vậy.

Việc Nga ngày càng gia tăng xâm nhập không phận châu Âu thường được mô tả là hành động chiến tranh hỗn hợp (hybrid war). Điều này ngụ ý rằng trong lúc chiến tranh thông thường đang diễn ra ở Ukraine, với quân đội Nga trực tiếp nhắm vào thường dân Ukraine, thì cuộc chiến của Nga ở châu Âu vẫn đang nằm trong vùng xám. Đây là một đòn tâm lý nhằm làm suy yếu động lực và quyết tâm của châu Âu.

Tuy nhiên, sự phân biệt này lại gây hiểu lầm. Tốt hơn hết, chúng ta nên xem cuộc chiến ở Ukraine là một cuộc chiến duy nhất, với các mức độ tham gia khác nhau. Việc Nga vi phạm không phận chí ít cũng cho thấy rằng Moscow không hề phân biệt rõ ràng giữa châu Âu và Ukraine. Vì thế, các nhà phân tích phải từ bỏ phân biệt này nếu họ muốn hiểu được suy nghĩ của Nga, và các quốc gia châu Âu cũng phải từ bỏ phân biệt này nếu họ muốn giành được lợi thế lâu dài trong cuộc chiến.

Trong lúc Mỹ dần rút lui khỏi cuộc xung đột, giảm bớt hỗ trợ quân sự trực tiếp cho Ukraine, thì châu Âu đã bắt đầu tiến lên, đầu tư mạnh mẽ vào việc bảo vệ Ukraine. Mục tiêu mà châu Âu thường tuyên bố – một Ukraine hội nhập vào các cấu trúc chính trị và an ninh của châu Âu – vốn là điều mà Nga cực kỳ ghét. Nhưng bất chấp tuyên bố đó, châu Âu vẫn cố gắng giữ khoảng cách an toàn với cuộc chiến.

Trong tương lai, châu Âu nên từ bỏ cái cớ của chiến tranh hỗn hợp. Khi làm được điều đó, họ sẽ nhận ra lập trường của châu Âu đối với Ukraine có thể vững chắc hơn họ nghĩ, và gắn chặt với cuộc chiến hơn họ mong muốn. Trong cuộc đối đầu lâu dài với Nga, châu Âu đang nắm trong tay nhiều quân bài tốt nhất.

Cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine luôn liên quan đến nhiều thứ vượt xa lãnh thổ Ukraine, luật ngôn ngữ Ukraine, hoặc tình trạng của “người Nga bản địa” ở Ukraine. Điều quan trọng đối với Nga là vị trí của Ukraine tại châu Âu. Trước Cách mạng Maidan năm 2014, Moscow từng có một khách hàng trung thành là Viktor Yanukovych, Tổng thống Ukraine lúc bấy giờ. Tại Crimea, Ukraine khi đó đã cho Nga thuê cảng hải quân Sevastopol. Và trong lúc hợp tác kinh doanh với Nga, Ukraine không có ý định gia nhập NATO. Việc đột ngột mất đi vị khách này đã thúc đẩy Nga sáp nhập Crimea và xâm nhập vào miền đông Ukraine. Sau năm 2014, Nga giữ quyền kiểm soát Crimea và một phần miền đông Ukraine, đồng thời bình thường hóa quan hệ với châu Âu. Tại Moscow, hy vọng là quay trở lại những ngày tháng yên bình trước Maidan, nhưng điều này đã không bao giờ xảy ra.

Nga đã tiến hành cuộc xâm lược Ukraine năm 2022 với mục đích chính là nhắm vào châu Âu. Nếu Ukraine rơi vào tay Nga mà không đổ máu, đúng như dự đoán của kế hoạch chiến tranh ảo tưởng của Nga, thì châu Âu có lẽ đã bị đe dọa và buộc phải thiết lập một quan hệ mới với Nga. Suy cho cùng, châu Âu chưa từng cắt đứt quan hệ với Nga vì việc sáp nhập Crimea cũng như các cuộc tấn công của Nga vào miền đông Ukraine.

Tuy nhiên, cuộc xâm lược năm 2022 của Nga lại thất bại, khiến Tổng thống Nga Vladimir Putin sa lầy vào một cuộc chiến không hồi kết. Nga không có năng lực quân sự để chiến thắng (bất kể chiến thắng có nghĩa là gì), và cũng không có bất kỳ chiến lược rút lui nào. Tệ hơn nữa, hầu hết châu Âu đã đứng về phía Ukraine. Đức, nước từng ủng hộ Nga ở châu Âu, giờ đây trở thành kẻ thù cay đắng của Nga.

Vấn đề là nước Nga của Putin không xem thất bại ở Ukraine là một lựa chọn. Cuộc chiến phải tiếp diễn cho đến khi có thể vạch ra hai ranh giới chấp nhận được, một là xuyên qua Ukraine và một là giữa Nga và châu Âu. Theo quan điểm của Nga, châu Âu đang trở thành một phe phái vũ trang và thù địch. Do đó, những nỗ lực của châu Âu nhằm hội nhập Ukraine sẽ phải được đối phó bằng sức mạnh quân sự bền bỉ, hoặc để buộc người châu Âu từ bỏ nỗ lực của họ, hoặc nếu điều đó là bất khả thi, thì là để buộc châu Âu phải trả giá cho thái độ thù địch không thể phá vỡ của mình.

Với việc châu Âu (và đặc biệt là Đức) đổ tiền vào quan hệ đối tác quân sự với Ukraine, Moscow đã kết luận rằng họ không thể cô lập châu Âu khỏi cuộc chiến. Kết quả là, họ đang cố gắng di chuyển ranh giới chia cắt Ukraine càng xa về phía tây càng tốt bằng cách quấy rối châu Âu.

Nga có thể sẽ gia tăng nỗ lực đe dọa trực tiếp châu Âu. Đây là phương pháp của Nga nhằm tạo ra đòn bẩy trước các quốc gia châu Âu. Cách này không quá tốn kém, nhưng lại đặt châu Âu vào thế lưỡng nan là leo thang căng thẳng. Điều này đặc biệt hiệu quả vào thời điểm cam kết của Mỹ đối với an ninh châu Âu đang lung lay, và nó cũng khai thác thách thức lâu dài của châu Âu trong việc thống nhất chính sách đối ngoại và an ninh. Liên minh châu Âu có quá ít phương tiện quân sự, trong khi NATO lại do một siêu cường muốn giảm bớt sự hiện diện quân sự tại châu Âu dẫn đầu. Về mặt quân sự, châu Âu không phải là một liên bang, và đó là một vấn đề nan giải khi phải đối đầu với một quốc gia-dân tộc duy nhất do một nhân vật chuyên chế quyết tâm lãnh đạo.

Những thách thức chồng chất này không đồng nghĩa với việc châu Âu chắc chắn sẽ thất bại. Thay vào đó, chính những nỗ lực leo thang căng thẳng của Moscow mới có thể thất bại. Giống như ở Ukraine năm 2022, Nga lại một lần nữa gây chiến với châu Âu – một cuộc chiến mà nước này quá nhỏ bé để có thể giành chiến thắng. Họ có thể gây tổn thất cho đối phương, nhưng không thể quyết định kết cục của cuộc xung đột.

Châu Âu không thể ngăn chặn mọi hành vi phá hoại, bay qua không phận, và tấn công mạng của Nga. Nhưng vẫn có giải pháp thiết thực cho mỗi thách thức này, một vài trong số đó sẽ mang tính quân sự. Ví dụ, người châu Âu nên tìm ra một cách ít tốn kém để bắn hạ máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên không phận châu Âu. Một số giải pháp sẽ dựa vào các cơ quan tình báo của châu Âu: phát hiện những kẻ phá hoại của Nga và phát triển các công cụ để âm thầm trả đũa các hoạt động nguy hiểm của Nga. Những giải pháp khác sẽ đến từ việc kiểm soát tốt hơn. Giống như đối phó với khủng bố, đối phó với chiến tranh phi chính quy là một khoa học không hoàn hảo. Thất bại nên được đánh giá lại một cách kỹ lưỡng, nhưng khi những thất bại này xảy ra, chúng không nên là dịp để tự phê bình quá mức hoặc tâng bốc quá mức sức mạnh của Nga. Chúng nên được chấp nhận một cách bình tĩnh. Chúng là sản phẩm phụ tất yếu của cuộc chiến lan rộng này.

Việc Điện Kremlin mở rộng chiến tranh sang châu Âu cũng mang đến cho chúng ta cái nhìn sâu hơn về tư duy của Nga về Ukraine và châu Âu. Đối với châu Âu, Nga gần như đã từ bỏ việc sử dụng thuyết phục như một công cụ chính sách đối ngoại, dù họ vẫn không từ bỏ việc cố gắng thuyết phục Washington.

Những cuộc tấn công tàn bạo của Nga vào đời sống dân sự ở Ukraine cho thấy Moscow đã đánh mất công chúng Ukraine, những người sẽ không quay lại với Nga. Tuy nhiên, Nga không có sức mạnh quân sự để áp đặt ý chí của mình lên những vùng đất Ukraine chưa bị chiếm đóng, chiếm khoảng 80% đất nước. Ở đây, cuộc chiến của họ đã đạt đến giới hạn cứng và không thể tiến xa hơn. Nhiều người đã quên mất rằng kế hoạch chiến tranh ban đầu của Nga bắt nguồn từ một lập luận chính trị – rằng chính phủ Ukraine là bất hợp pháp, rằng hàng triệu người Ukraine muốn sống ở Nga hoặc trở thành người Nga, rằng phương Tây là bản sao suy đồi của một nước Nga sôi động, và tất cả có nghĩa là những người Ukraine theo chủ nghĩa truyền thống, nếu được lựa chọn, sẽ chọn Nga. Vậy mà giờ đây Nga lại sử dụng vũ lực để đàn áp Ukraine, bằng chứng tích cực cho thấy rằng mọi thứ đi sai hướng đối với Nga.

Với châu Âu, Nga cũng đã chọn cách đe dọa thay vì thuyết phục. Putin không thể phớt lờ khoản chi tiêu nửa nghìn tỷ euro mà Đức đã cam kết. Ông phải tìm cách phản kháng. Dù sự phản kháng này có mang lại lợi thế quân sự gì đi chăng nữa, thì nó cũng gây suy yếu về mặt chính trị cho Nga, quốc gia từng có mạng lưới liên kết trên khắp lục địa. Cựu Thủ tướng Đức Gerhard Schröder đã rời nhiệm sở năm 2005 và sau đó trở thành một người vận động hành lang cho chính phủ Nga, nhưng điều đó là không thể tưởng tượng được ngày nay. Ngay cả các chính phủ châu Âu được xem là “ngoại lệ” trong lập trường đối với Nga – như Hungary, Slovakia, và Ý – cũng không thể thực sự chống lại cam kết ngày càng mạnh mẽ của châu Âu dành cho Ukraine. Đức thế nào thì châu Âu thế ấy, và nước Đức, dưới thời Thủ tướng Friedrich Merz, đã bị biến đổi sâu sắc bởi cuộc chiến của Nga.

Châu Âu có nhiều lợi thế bất đối xứng so với một nước Nga hiếu chiến. Chiến tranh phi chính quy sẽ không cho phép Nga chiếm giữ lãnh thổ ở châu Âu, và nó cũng không dễ dàng được chuyển đổi thành chiến tranh thông thường. Chiến tranh phi chính quy sẽ không khiến người châu Âu đầu hàng ở Ukraine, và trong cuộc chiến tiêu hao này, châu Âu có lợi thế dài hạn hơn hẳn. Đúng là châu Âu không giỏi huy động nguồn lực quân sự nhanh chóng. Tình trạng nguy cấp của hệ thống phòng không Ukraine sẽ khiến mùa đông trở nên khó khăn, trong khi Nga đang sản xuất hàng loạt máy bay không người lái với tốc độ đáng báo động.

Tuy nhiên, sự chênh lệch về sức mạnh kinh tế là quá lớn. Tổng GDP của EU là khoảng 20 nghìn tỷ đô la, trong khi GDP của Nga chỉ hơn 2 nghìn tỷ đô la một chút. Những con số này không đảm bảo chiến thắng cho Ukraine. Nhưng chúng khiến cho khả năng châu Âu thất bại trong cuộc đấu tranh kéo dài này là rất thấp. Một nước Nga không có khả năng thuyết phục sẽ không có đủ sức mạnh quân sự cần thiết để ép buộc châu Âu chấp nhận các quy tắc của mình, một bài toán nan giải không thể giải quyết chỉ bằng cách đưa máy bay không người lái vào không phận châu Âu.

Gần đây, Merz đã ẩn ý rằng châu Âu không hòa bình, nhưng cũng không có chiến tranh. Sẽ tốt hơn nếu các nhà lãnh đạo và người dân châu Âu chịu thừa nhận thẳng thắn: Chiến tranh của Ukraine là chiến tranh của châu Âu. Đó là cuộc chiến xoay quanh việc liệu Ukraine có phải là một phần của châu Âu hay không. Nếu bạn tin rằng Ukraine là một phần của châu Âu, như hầu hết các nhà lãnh đạo châu Âu vẫn nói, thì bạn tin rằng bản thân cuộc chiến đã lan đến lục địa này. Càng sớm chấp nhận điều này, người châu Âu càng có thể trân trọng và sử dụng tốt hơn các nguồn lực mình có.

Michael Kimmage là giám đốc Viện Kennan.