Nguồn: Gideon Rachman, “The Trump doctrine: don’t rely on America,” Financial Times, 31/10/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Một năm sau khi tái đắc cử, ngoại giao đang bị thúc đẩy bởi ý thích cá nhân của Tổng thống Mỹ ở mức độ chưa từng có trong thời hiện đại.
Khi Sanae Takaichi gặp Donald Trump lần này, bà mang theo một tin tốt lành. Thủ tướng mới của Nhật Bản đã đề cử Trump cho Giải Nobel Hòa bình. Và bằng cách đó, Nhật Bản đã đi theo bước chân của chính phủ Campuchia, Pakistan, và Israel.
Việc tâng bốc Trump – và chiều theo những sở thích của ông – giờ đây đã trở thành thông lệ đối với các nhà lãnh đạo nước ngoài. Ngài Keir Starmer, Thủ tướng Anh, đã tận dụng cuộc gặp đầu tiên tại Phòng Bầu dục với Trump để công bố lời mời thăm cấp nhà nước lần thứ hai tới Vương quốc Anh. Ông nhấn mạnh rằng sự kiện này “thực sự mang tính lịch sử” và “chưa từng có tiền lệ.”
Kiểu nịnh hót này thật không đứng đắn. Nhưng, một năm sau khi Trump tái đắc cử, các đồng minh của Mỹ giờ đây kết luận rằng nịnh hót là điều không thể thiếu. Ở một mức độ chưa từng có trong thời hiện đại, chính sách đối ngoại của Mỹ đang bị chi phối bởi ý thích cá nhân của tổng thống.
Nếu làm phật lòng Trump, hậu quả có thể rất tai hại. Quan hệ Mỹ-Ấn đã trở nên căng thẳng sau khi Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi từ chối ghi nhận công lao của Trump trong việc kiến tạo hòa bình giữa Ấn Độ và Pakistan. Mỹ sau đó đã áp thuế 50% lên Ấn Độ. Gần đây, Trump cũng đã tăng thuế đối với Canada vì bất bình với một quảng cáo truyền hình chống thuế quan do tỉnh Ontario phát sóng.
Những cơn thịnh nộ và quyết định thay đổi đường lối một cách đột ngột của Trump có thể khiến chính sách đối ngoại của ông trở nên vô cùng khó lường. Nhưng có một số điểm rõ ràng đã nổi lên trong chín tháng qua.
Tổng thống Mỹ có những nỗi ám ảnh không dễ gì lay chuyển. Ông thích thuế quan – tin rằng chúng sẽ làm cho nước Mỹ giàu có và hùng mạnh hơn. Ông cũng tin rằng Mỹ đã bị các đồng minh “đánh lừa” và quyết tâm tái cấu trúc hệ thống quốc tế để phù hợp với chính sách “Nước Mỹ trên hết” của mình.
Cách tiếp cận của Trump đối với các vấn đề thế giới mang nặng tính giao dịch. Việc bàn luận về các giá trị và tự do của Mỹ – vốn được các tổng thống tiền nhiệm ưa chuộng – đã bị bỏ qua. Thay vào đó, Trump thích nói về sức mạnh của nước Mỹ và việc “bỏ túi” những “chiến thắng,” chẳng hạn như lời hứa về các khoản đầu tư khổng lồ vào Mỹ, hoặc một thỏa thuận hòa bình khác mà ông có thể nhận hết công lao.
Mong muốn trở thành người kiến tạo hòa bình của Tổng thống Mỹ dường như khá chân thành. Nó có thể phản ánh nỗi kinh hoàng thực sự khi đứng trước chiến tranh. Và nó có thể được thúc đẩy bởi mong muốn sánh ngang với Giải Nobel Hòa bình (thật khó hiểu) đã được trao cho Barack Obama vào năm 2009. Bản thân Trump từng nói rằng ông muốn cải thiện cơ hội lên thiên đàng của mình, trầm ngâm: “Tôi nghe nói mình đang không ổn. Tôi thực sự ở dưới đáy của bảng xếp hạng.”
Nhưng ngay cả bản năng làm người gìn giữ hòa bình của Trump cũng có lúc thăng lúc trầm.
Hiện tại, Tổng thống và đội ngũ muốn nhấn mạnh vai trò của ông trong việc làm trung gian cho lệnh ngừng bắn ở Gaza và khiến Israel và Hamas ký vào kế hoạch 20 điểm hướng tới hòa bình lâu dài ở Trung Đông.
Nhưng Trump, đôi khi, cũng sẵn sàng cho chiến tranh một cơ hội. Hồi tháng 6, sau khi Israel tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran, ông cho phép Mỹ tham gia các cuộc không kích tiếp theo vào Iran. Đây là một bước đi từng được các đời tổng thống Mỹ liên tiếp cân nhắc – và bác bỏ – trong 20 năm trước đó. Sau đợt không kích, Trump nhanh chóng nhận công lao cho việc “phá hủy” các cơ sở hạt nhân của Iran, và những người hoài nghi trong chính quyền đã nhanh chóng bị bịt miệng.
Ngay cả khi đang hân hoan làm trung gian một thỏa thuận hòa bình khác – lần này là giữa Thái Lan và Campuchia – Trump lại âm thầm chuyển hướng sang sử dụng vũ lực ở vùng Caribbean. Trong những tuần gần đây, Mỹ đã thực hiện một loạt các cuộc tấn công chết người vào các tàu thuyền bị cáo buộc vận chuyển ma túy. Tàu sân bay USS Gerald R. Ford vừa được điều động đến khu vực này – và đã có những lời bàn tán về nỗ lực gây sức ép để thay đổi chế độ ở Venezuela.
Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, chính sách thuế quan của Trump hiện là khía cạnh quan trọng nhất trong quan hệ của họ với Mỹ. Các mức thuế toàn cầu khổng lồ mà Trump công bố vào cái gọi là Ngày Giải phóng 02/04 đã nhanh chóng bị cắt giảm trước phản ứng bất lợi của thị trường. Nhưng kể từ đó đến nay, chính quyền Trump vẫn kiên trì theo đuổi chính sách áp đặt thuế quan riêng cho từng quốc gia. Theo một quy trình có vẻ khó hiểu, Anh đã kết thúc với mức thuế cơ bản là 10%, trong khi Nhật Bản và EU mỗi bên nhận mức thuế 15%, Philippines là 19%, còn Nam Phi là 30%. Trung Quốc gần đây vừa bị đe dọa áp dụng mức thuế 100%, nhưng sau cuộc họp Trump-Tập tại Seoul, mức thuế trung bình đối với hàng Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ sẽ là 45%.
Mong muốn rõ ràng của Trump về một thỏa thuận lớn với Tập Cận Bình đã làm gián đoạn một trong số ít lĩnh vực chính sách đối ngoại của Mỹ từng đạt được sự đồng thuận lưỡng đảng. Đây là lần đầu tiên chính quyền Trump đặt “cạnh tranh giữa các siêu cường” trở lại trọng tâm chính sách đối ngoại Mỹ – với Trung Quốc được xác định là đối thủ chính đối với quyền lực của nước Mỹ. Chính quyền Biden gọi Trung Quốc là “mối đe dọa lâu dài” (the pacing threat) đối với Mỹ và tìm cách tập hợp các đồng minh của Mỹ trong nỗ lực kiềm chế sức mạnh của Bắc Kinh.
Chính quyền Trump thứ hai dường như đã sẵn sàng tiếp tục nỗ lực này. Nhiều người dự đoán rằng các mức thuế quan của Trump sẽ tập trung chủ yếu vào Trung Quốc – gắn kết bản năng kinh tế của ông với nỗ lực chiến lược rộng lớn hơn nhằm kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc.
Nhưng mức thuế mà Trump áp đặt lên các đồng minh và bạn bè chủ chốt ở Châu Á – chẳng hạn như Nhật Bản, Ấn Độ, Đài Loan, và Hàn Quốc – đã đi ngược lại nỗ lực cô lập Trung Quốc tại khu vực này. Các nước như Ấn Độ và Việt Nam hiện đang cố gắng xích lại gần Bắc Kinh.
Vậy thế giới nên nhìn nhận thế nào về tất cả những sáng kiến và chính sách mâu thuẫn này? Liệu một ngày nào đó, sử sách có thể tìm ra một “học thuyết Trump” mạch lạc để đặt bên cạnh “học thuyết Truman” đã được áp dụng từ đầu Chiến tranh Lạnh?
Có lẽ hơi quá đáng khi mong đợi một người hành động theo bản năng và ích kỷ như Trump đưa ra một cách tiếp cận hoàn chỉnh và nhất quán với thế giới bên ngoài.
Nhưng có rất nhiều người trong chính quyền của ông muốn đảm nhận công việc đó. Trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại MAGA, họ cũng hy vọng thúc đẩy nó theo hướng mình muốn.
Một trong những nỗ lực có ảnh hưởng nhất nhằm xác định các nhánh chính sách đối ngoại khác nhau trong phong trào chính trị của Trump là do Majda Ruge và Jeremy Shapiro thuộc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Châu Âu thực hiện. Trong bài viết xuất bản tháng 11/2022 – hai năm trước khi Trump tái đắc cử – họ xác định “ba nhóm Cộng hòa,” mà họ gọi là những người kiềm chế (restrainers), những người ưu tiên (prioritisers), và những người theo chủ nghĩa thống trị (primacists). Các phân loại này sau đó đã được nhiều đảng viên Cộng hòa chấp nhận và sử dụng như một tên gọi tắt trong chính giới Washington.
Những người theo chủ nghĩa thống trị cam kết Mỹ sẽ tiếp tục giữ vai trò truyền thống là siêu cường toàn cầu – củng cố trật tự an ninh toàn cầu ở Châu Âu, Châu Á, Trung Đông, và Mỹ Latinh. Trong chính quyền Trump hiện tại, Ngoại trưởng Marco Rubio, Thượng nghị sĩ Lindsey Graham của Nam Carolina, và Mike Waltz, cựu cố vấn an ninh quốc gia và hiện là đại sứ tại Liên Hiệp Quốc, đều được xem là những người theo chủ nghĩa thống trị.
Những người kiềm chế – thường có liên hệ mật thiết với Phó Tổng thống J.D. Vance – thì thận trọng hơn nhiều trong việc thực thi quyền lực toàn cầu của Mỹ. Bị ám ảnh bởi kinh nghiệm từ các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, họ nghi ngờ các đồng minh của Mỹ ở Châu Âu và Châu Á – lo sợ rằng những quốc gia này có thể lôi kéo Mỹ vào các cuộc chiến mới.
Những người ưu tiên – đôi khi được gọi là nhóm “Châu Á trên hết” – lại lập luận rằng Mỹ không còn đủ nguồn lực để đóng vai trò cảnh sát toàn cầu. Thay vào đó, họ phải tự lựa chọn chiến trường của mình. Theo Elbridge Colby, quan chức cấp cao tại Lầu Năm Góc, điều này có nghĩa là giảm ưu tiên cho cuộc chiến Ukraine để tập trung vào việc kiềm chế Trung Quốc ở Châu Á.
Bản thân Trump không thuộc bất kỳ phe phái nào trong số này. Như Shapiro đã chỉ ra: “Tổng thống không quan tâm đến bất kỳ trường phái nào trong số này. Ông bị thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân và tâm lý của riêng mình.” Kết quả là, cả ba nhóm đều cố gắng định hình chính sách, bằng cách liên kết với ý thích và mong muốn “chiến thắng” của Tổng thống.
Và mỗi trường phái đều có những chiến thắng và thất bại riêng.
Những người kiềm chế nhiệt tình ủng hộ ý tưởng tách Ukraine ra khỏi EU và tìm kiếm sự hòa giải với nước Nga của Vladimir Putin. Vance đóng vai trò trung tâm trong cuộc xung đột tại Phòng Bầu dục được truyền hình trực tiếp hồi tháng 2 với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy.
Họ đã thành công trong việc buộc chính quyền Trump cắt đứt mọi viện trợ tài chính cho Ukraine – và buộc các nước Châu Âu phải bù đắp khoản thiếu hụt. Họ cũng ủng hộ thái độ hoài nghi của Trump đối với NATO và yêu cầu các nước Châu Âu chi trả nhiều hơn cho quốc phòng của mình.
Nhưng một ý tưởng khác được những người theo chủ nghĩa kiềm chế ủng hộ – sự xích lại gần với nước Nga của Putin – đã không thành hiện thực. Trump rõ ràng thất vọng với kết quả của hội nghị thượng đỉnh hồi tháng 8 tại Alaska với Putin. Giờ đây, ông tỏ ra thân thiện hơn với Zelensky và siết chặt các lệnh trừng phạt đối với Nga.
Những người kiềm chế còn gặp phải những thất bại khác. Quyết định ném bom Iran đã gây rạn nứt công khai trong phong trào MAGA – với những nhân vật có ảnh hưởng như Tucker Carlson và nữ nghị sĩ Marjorie Taylor Greene lên án động thái này. Một cuộc trò chuyện nhóm bị rò rỉ giữa Vance, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth, và những người khác đã tiết lộ sự miễn cưỡng của Phó Tổng thống trong việc đồng ý với quyết định ném bom Houthi ở Yemen. “Tôi nghĩ chúng ta đang phạm sai lầm,” Vance viết. “Tôi ghét phải cứu Châu Âu thêm một lần nữa.”
Việc ném bom Iran là một thắng lợi cho phe theo chủ nghĩa thống trị – những người tin vào việc sử dụng sức mạnh của Mỹ một cách mạnh mẽ trên toàn thế giới. Tuy nhiên, quyết định của Trump nhằm nhanh chóng chấm dứt chiến dịch đó đã làm thất vọng một số người trong phe này, những người hy vọng rằng Mỹ sẽ tiếp tục chiến tranh và gây sức ép dữ dội hơn để thay đổi chế độ ở Iran.
Rubio, người có lẽ là lãnh đạo của phe thống trị, chính là nhân vật chủ chốt thúc đẩy chính sách cứng rắn đối với chính quyền Maduro ở Venezuela. Bằng cách kết hợp chính sách Venezuela với những lo ngại trong nước của Trump về ma túy và nhập cư, Rubio có thể ghi thêm một chiến thắng nữa cho những người theo chủ nghĩa thống trị. Phe Rubio cũng đã thành công trong việc ngăn chặn bất kỳ ý định rút khỏi NATO nào của Tổng thống. Chính sách hiện tại – vẫn ở trong liên minh, đồng thời buộc các nước Châu Âu phải chi tiêu nhiều hơn – có vẻ là một sự thỏa hiệp khả thi giữa lập trường kiềm chế và lập trường thống trị.
Những người ưu tiên có lẽ đã thể hiện kém nhất trong ba trường phái. Lập luận của Colby rằng Mỹ nên hạ thấp tầm quan trọng của Trung Đông và Châu Âu, để ủng hộ nỗ lực mới nhằm kiềm chế Trung Quốc, dường như đang gặp trục trặc. Việc cắt giảm viện trợ quân sự cho Ukraine chắc chắn phù hợp với tầm nhìn của Colby. Nhưng tin đồn rằng Bộ Chiến tranh (tên gọi hiện tại của Lầu Năm Góc) đang xây dựng một chiến lược quốc phòng quốc gia mới, ưu tiên Tây Bán cầu hơn Châu Á nghe như là một sự bác bỏ tiềm tàng đối với thế giới quan của những người ưu tiên. Bất kỳ thỏa thuận thương mại nào với Trung Quốc mà hy sinh lợi ích của Đài Loan cũng sẽ là một đòn giáng mạnh vào cả phe thống trị lẫn phe ưu tiên.
Ba trường phái chính sách đối ngoại do Ruge và Shapiro đề xuất – dù hữu ích – nhưng vẫn chưa thể nắm bắt được tất cả những bản năng và ảnh hưởng hỗn loạn đã định hình chính sách đối ngoại trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump.
Một chiến dịch mà hầu như không ai lường trước được chính là tuyên bố ban đầu về một hình thức chủ nghĩa đế quốc Mỹ mới – thể hiện rõ qua việc Tổng thống tuyên bố muốn sáp nhập Greenland và liên tục đề xuất Canada trở thành tiểu bang thứ 51. Đây là một tuyên bố rất mạnh – ngay cả đối với những người theo chủ nghĩa thống trị – và vẫn còn nhiều tranh cãi về việc ai là người đã đưa những ý tưởng này vào chương trình nghị sự của Trump.
Chủ nghĩa đế quốc công khai hiện đang bị xem nhẹ – dù có thể vẫn đang có những nỗ lực ngầm nhằm thúc đẩy tham vọng của Trump ở Greenland. Tuy nhiên, việc đe dọa Canada và Đan Mạch, xúc phạm Ấn Độ và Brazil, áp thuế quan lên tất cả các đồng minh của Mỹ, và khuyến khích phe cực hữu ở Châu Âu, nhiều khả năng sẽ để lại hậu quả lâu dài.
Những người ủng hộ Trump cho rằng các lời than phiền xoay quanh những chính sách này chỉ là sự lo lắng vô ích của phe tự do. Họ tin rằng việc Tổng thống sẵn sàng sử dụng sức mạnh và đòn bẩy của Mỹ đã mang lại kết quả tích cực ở Gaza, thay đổi NATO theo hướng tốt đẹp hơn, và đảm bảo các điều khoản thương mại được cải thiện đáng kể cho Mỹ.
Một quan điểm khác là, như Shapiro nhận định, “Trump đang đổi sự lên án ngắn hạn lấy những vấn đề dài hạn. Ông đang tiêu hết 80 năm vốn liếng ngoại giao của Mỹ.” Vốn liếng đó được tích lũy, phần lớn, bằng cách củng cố hệ thống thương mại toàn cầu và bảo đảm an ninh cho các đồng minh của Mỹ ở Châu Á và Châu Âu.
Điều đó khiến các quốc gia như Nhật Bản, Anh, Canada và nhiều nước khác phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ – theo đó mang lại cho Mỹ đòn bẩy cực kỳ lớn. Nhưng bằng cách sử dụng đòn bẩy đó một cách tàn nhẫn đến kinh ngạc, Trump cũng đang gửi đi một thông điệp cho tương lai – dựa vào Mỹ là tự chuốc lấy nguy hiểm.
Hậu quả gần như không thể tránh khỏi là các đồng minh của Mỹ sẽ bắt đầu phòng bị nước đôi trước sức mạnh của Mỹ. Đôi khi, quá trình này được thể hiện công khai, như khi Thủ tướng Canada Mark Carney nói rõ rằng ông dự định sẽ nỗ lực hết sức để đa dạng hóa các quan hệ thương mại của nước mình. Đôi khi, quá trình lại được thể hiện một cách kín đáo hơn, như trong động lực mới nhằm phát triển năng lực quốc phòng và vệ tinh của Châu Âu, những năng lực có thể hoạt động độc lập mà không cần đến Mỹ.
Các quốc gia không phải đồng minh của Mỹ – và không phụ thuộc vào sự bảo đảm an ninh của Mỹ – thậm chí còn thoải mái phản ứng mạnh mẽ trước những hành vi được cho là “bắt nạt” đến từ Nhà Trắng của Trump. Tổng thống Brazil Luiz Inácio Lula da Silva đã phản đối gay gắt những nỗ lực của chính quyền Trump nhằm ngăn chặn việc truy tố và bỏ tù cựu tổng thống Jair Bolsonaro, vốn là đồng minh chủ chốt của Trump. Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi được cho là đã từ chối nghe điện thoại của Trump sau cuộc tranh cãi Mỹ-Ấn.
Kết quả là, Mỹ đang mất dần ảnh hưởng với các nước chủ chốt ở phương Nam toàn cầu. Trong bài viết gần đây trên tạp chí Foreign Affairs, Richard Fontaine và Gibbs McKinley phàn nàn rằng Mỹ đang xa lánh các quốc gia dao động trong hệ thống toàn cầu và lập luận rằng “Washington đang khiến BRICS trở thành một khối chống Mỹ.”
Bằng cách sử dụng sức mạnh của nước Mỹ theo những cách mới và gây tranh cãi, Trump đang thể hiện sức mạnh to lớn mà nước Mỹ vẫn nắm giữ. Nhưng ông có lẽ cũng đảm bảo rằng, trong tương lai, những người kế nhiệm ông sẽ có ít quyền lực toàn cầu hơn để sử dụng.

