
Nguồn: Hoàng Phác Dân, 黄朴民:中西军事学术的比较与互鉴之我见, aisixiang, 21/11/2025.
Biên dịch: Lê Thị Thanh Loan
“Sự học hỏi lẫn nhau/sự tương chiếu giữa các nền văn minh” có một tầm quan trọng không thể phủ nhận. Đặc tính căn bản của nó là “tự soi chiếu chính mình qua hình bóng của người khác”, thông qua việc tham chiếu lẫn nhau để nhận thức rõ về bản thân hơn, hiểu rõ người khác hơn, từ đó khắc phục những thành kiến như tự ti hay kiêu ngạo quá mức, tránh tình trạng bảo thủ và khư khư bám vào những quan niệm lỗi thời. Trong khi trân trọng chính mình, ta cũng biết trân trọng những đối tượng được so sánh, từ đó học hỏi cái hay của nhau, hỗ trợ lẫn nhau cùng tồn tại và phát triển, và “mỗi bên đẹp cái đẹp của mình, trân trọng cái đẹp của người khác; cái đẹp hòa hợp lẫn nhau, thiên hạ đại đồng”. Vì vậy, xét từ góc độ tiến bộ của toàn cầu và thịnh vượng của nhân loại, việc đề xướng và thực hành “sự học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh” là logic nội tại và là một khía cạnh tất yếu của sự vật. Trong đại cục và xu thế lớn lao này, việc so sánh và tương chiếu giữa hai nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây là một trọng tâm quan trọng.
Tuy nhiên, biết luôn dễ hơn làm. Trong lĩnh vực học thuật quân sự, tầm quan trọng của nghiên cứu so sánh và tính cần thiết của sự tương chiếu giữa các nền văn minh là điều ai cũng hiểu, nhưng khi bắt tay vào thực hiện thì lại không hề dễ dàng. Làm thế nào để thúc đẩy và đào sâu hơn nữa công việc này dựa trên nền tảng hiện có nhằm đạt được các mục tiêu mong đợi? Đây là câu hỏi mà người viết đã suy ngẫm và hình thành một số quan điểm sơ bộ, nay muốn chia sẻ và thảo luận với các đồng nghiệp thông qua không gian quý báu của Tạp chí Nghiên cứu Tôn Tử binh pháp. Những suy nghĩ này khó tránh khỏi còn nông cạn, nếu có bất kỳ sai sót nào, rất mong nhận được sự phê bình và chỉnh sửa của các chuyên gia.
1. Việc so sánh và tương chiếu cần có trọng tâm hợp lý
Để tạo điều kiện thuận lợi cho “sự học hỏi lẫn nhau” giữa hai nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây, việc tiến hành nghiên cứu so sánh toàn diện về các hình thái học thuật quân sự của hai bên chính là nền tảng cốt lõi, giống như câu nói “không có so sánh thì không có sự phân biệt”. Nói cách khác, nghiên cứu so sánh và kết quả của nó là điều kiện tiền đề cho “sự tương chiếu giữa các nền văn minh”, trong khi “sự tương chiếu giữa các nền văn minh” lại chính là điểm khởi đầu về mặt logic và là mục tiêu cuối cùng của nghiên cứu so sánh.
Phương pháp nghiên cứu so sánh trước hết có mối liên hệ trực tiếp với nghiên cứu lịch sử, nó vốn là một nội hàm tất yếu của nghiên cứu lịch sử. Muốn nghiên cứu lịch sử và khám phá các quy luật phát triển của lịch sử, sẽ là bất khả thi nếu không có sự phân tích và đối chiếu một cách toàn diện giữa các thời kỳ khác nhau. Như Chu Hoàn đã chỉ ra: “Lịch sử thế giới chính là nắm bắt những quy luật chung và quy luật đặc thù của sự phát triển lịch sử thế giới từ góc độ vĩ mô, đồng thời làm sáng tỏ một cách cụ thể về tính thống nhất và đa dạng của sự phát triển lịch sử thế giới.”[1] Lưu Gia Hòa cũng cho rằng: “Nghiên cứu so sánh, với tư cách là một phương pháp, gần như cổ xưa ngang với chính lịch sử học.” Ông cho rằng chức năng cơ bản của so sánh là phân biệt cái giống và cái khác, tìm ra điểm tương đồng trong khác biệt và điểm khác biệt trong tương đồng. Nếu muốn vượt qua “sự thống nhất nhỏ” của vô số lịch sử quốc gia để đạt đến “sự thống nhất lớn” của lịch sử thế giới, thì nhất định phải tiến hành nghiên cứu so sánh.[2] Nghiên cứu lịch sử chính là vậy và các ngành khoa học khác, trong đó có nghiên cứu quân sự, cũng không ngoại lệ.
Cái gọi là “so sánh” được chia thành hai loại chính là so sánh theo chiều dọc, tức tự so bản thân với chính mình, và so sánh theo chiều ngang, tức lấy mình so với người khác hoặc đem người này so với người khác. Mục đích cuối cùng của so sánh là để nhận thức rõ hơn về những câu hỏi: Chúng ta là ai? Chúng ta đang ở đâu? Chúng ta sẽ đi về đâu? Tính phổ quát và tính đặc thù tạo nên tọa độ ngang – dọc trong nhận thức của con người. Với tư cách là một công cụ hoặc phương tiện tư duy, phương pháp so sánh giúp con người định vị lịch sử và hiện thực của hai đối tượng được đem ra so sánh.
Quan sát lịch sử Trung Quốc và nước ngoài, ta thấy các tác phẩm học thuật có tầm ảnh hưởng hoặc truyền cảm hứng thường mang tính chất so sánh. Ví dụ, Montesquieu đã khảo cứu tư tưởng pháp chế của phương Đông và phương Tây trong tác phẩm Tinh thần pháp luật; Hegel trong Triết học lịch sử đã luận giải sự phát triển khác nhau của tinh thần các dân tộc Âu – Á (đúng hay sai tạm không bàn); Đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản của Weber so sánh các quan niệm khác nhau về lao động và của cải giữa Tin lành và Công giáo; Nghiên cứu lịch sử của Toynbee thì so sánh các nền văn minh khác nhau; Black trong Động lực hiện đại hóa đã so sánh các loại hình hiện đại hóa khác nhau; North thì so sánh hiệu quả của các tổ chức kinh tế ở các nước phương Tây và nguyên nhân của chúng trong Sự trỗi dậy của thế giới phương Tây; còn Nền dân chủ Mỹ của Tocqueville cũng đầy rẫy những so sánh với nước Pháp. Những ví dụ kiểu này có rất nhiều và đây chính là biểu hiện nổi bật nhất cho nền tảng học thuật sâu dày của các học giả.
Tôn chỉ và điểm quy tụ của những so sánh này vốn phải là nhằm tạo động lực và điều kiện cho sự học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh. Nhưng trên thực tế, những ý định tốt đẹp đó lại chưa thực hiện được. Tuy tác phẩm Sự xung đột giữa các nền văn minh của Huntington có những vấn đề nghiêm trọng về cấu trúc logic và các kết luận liên quan, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, những hiện tượng cụ thể mà ông đã nêu ra và chứng minh thực sự tồn tại trong thực tế ở một mức độ nào đó.
Cụ thể, khi tiến hành giao lưu văn hóa hay đối thoại giữa các nền văn minh, con người từ lâu đã luôn nhấn mạnh lập trường bản vị của nền văn hóa mình và luôn coi việc làm nổi bật đặc trưng của nền văn hóa mình làm tiền đề khi so sánh với nền văn hóa khác. Kết quả là người ta thường chỉ phô bày tính đặc thù, tính độc lập và tính sai biệt giữa các nền văn hóa, trong khi lại vô tình hay cố ý làm mờ đi tính phổ quát, tính thống nhất và tính cộng đồng vốn có giữa chúng.
Vậy là ganh đua cao thấp và xưng hùng tránh bá cũng trở thành trạng thái thường thấy trong cuộc xung đột văn minh và sự phân hóa giá trị. Nền văn hóa mạnh sẽ sử dụng bá quyền diễn ngôn để thúc đẩy mạnh mẽ các hệ giá trị, quan niệm chính trị, xã hội, văn hóa của mình; trong khi nền văn hóa yếu hơn vì không muốn bị gạt ra ngoài lề hay bị đồng hóa nên đã phản kháng kịch liệt. Trong hoàn cảnh này, sự giao lưu giữa các nền văn minh càng sâu sắc thì dường như xung đột càng dữ dội hơn; sự tương tác văn hóa càng thường xuyên thì dường như xu hướng bài trừ càng rõ nét. Không những không thể chung sống hòa bình, mà còn dẫn đến vô số hiểu lầm, phán đoán sai lầm, thậm chí là đối đầu. “Đạo thuật trong thiên hạ sẽ bị phân rẽ.” Sự công nhận và trân trọng lẫn nhau giữa các nền văn minh vốn là tiền đề cơ bản cho sự học hỏi lẫn nhau, nhưng trong tình trạng căng thẳng, đối địch và thù hận lấn át lòng khoan dung, thì tư duy cố hữu kiểu “không phải cùng tộc, lòng dạ ắt sẽ khác” sẽ chi phối mọi nhận thức. Kết quả, cái gọi là “sự học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh” trở nên quá xa vời, thậm chí bất khả thi. Kết quả này tuy đáng tiếc và đáng tiếc, nhưng lại là một thực tại khắc nghiệt và không thể chối cãi mà chúng ta buộc phải đối diện và suy ngẫm. Xét cho cùng, trong xã hội lý tưởng nơi “nước này nghe được tiếng gà, tiếng chó ở nước kia, mà người dân các nước ấy cho đến khi chết già cũng chẳng qua lại với nhau” mà Lão Tử hằng theo đuổi, thì sự xung đột giữa các nền văn minh và giữa các nền văn hóa là điều vốn không thể xảy ra.
Theo tôi, nguyên nhân của những vấn đề này không hề phức tạp. Đó chính là bởi khi đối diện với các nền văn minh và văn hóa khác nhau, con người không thể duy trì sự cân bằng cần thiết giữa “tìm cái giống trong cái khác” và “tìm cái khác trong cái giống”. Trọng tâm mà mọi người thường quan tâm hay thảo luận luôn là “tìm kiếm sự khác biệt”, chứ không thay đổi góc nhìn, điều chỉnh góc độ hay đặt mình vào vị trí của đối phương để đặt “tìm kiếm điểm chung” vào vị trí trung tâm. Cần phải nói rằng, dù là “tìm cái khác” hay “tìm cái giống”, là thù địch và chỉ trích hay khoan dung và trân trọng, thì đều có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự thông suốt của cuộc đối thoại giữa các nền văn minh, có ý nghĩa then chốt đối với sự bao dung văn hóa, và là yếu tố không thể thiếu để đạt được sự học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh. Như câu nói rằng, lập trường quyết định thái độ, phẩm cách bộc lộ tầm cao. Nói cách khác, nếu không thể vượt qua định hướng giá trị “tìm cái khác”, con người chắc chắn sẽ không thể hiện được tôn chỉ văn hóa “trăm điều tụ về một mối, trăm đường về chung một lối”. Khi đó, các lý tưởng như bình đẳng văn minh, bao dung văn hóa, học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh, hòa hợp nhân loạivà hòa bình thế giới sẽ khó lòng đạt được.
Do đó, nhiệm vụ hàng đầu trong việc tiến hành giao lưu văn hóa, đối thoại và học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh chính là cải biến quan điểm văn hóa và điều chỉnh nhận thức vốn có của chúng ta về sự cùng tồn tại và học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh. Lập trường cơ bản của chúng ta nên chuyển từ việc chú trọng “tìm kiếm sự khác biệt” sang “tìm kiếm điểm chung”, thay đổi hướng đi và quay lại con đường đúng đắn. Nếu không, đó chắc chắn sẽ là một nỗ lực vô ích kiểu “bắt cá trèo cây”. Đây chính là lý do vì sao ngày nay chúng ta đặc biệt coi trọng và tích cực ủng hộ “sự học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh”. Điều này cũng giống như lời trong Kinh dịch: “Thiên hạ tuy khác đường nhưng hướng về cùng một đích; trăm mối ưu tư nhưng là về cùng một cái chung.” Hay như trong Hoài Nam Tử – Tề tục huấn: “Lời lẽ của trăm trường phái, tuy có vẻ khác điệu nhưng lại chung một đạo. Ví như âm thanh của tơ, trúc, kim, thạch hòa thành một bản nhạc, khúc điệu tuy khác nhau nhưng không mất hòa âm.”
Cụ thể, xét trong lĩnh vực nghiên cứu so sánh tư tưởng quân sự, trước đây chúng ta thường nhấn mạnh sự khác biệt giữa tư tưởng quân sự của Trung Quốc và phương Tây. Tuy nhiên, điểm giống giữa chúng mới thực sự là xu hướng chủ đạo. Tính phổ biến của mâu thuẫn là căn bản, tính đặc thù chỉ là bổ sung, khác biệt là “ngọn”, tương đồng mới là gốc. Không nên lẫn lộn giữa chủ yếu và thứ yếu, quan hệ gốc – ngọn cũng không nên bị đảo ngược. Chỉ khi giải quyết được vấn đề tiền đề này, “sự học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh” trên bình diện tư tưởng quân sự Trung Quốc và phương Tây mới có thể được thực hiện hiệu quả và đạt được mục tiêu kỳ vọng.
2. Việc so sánh và tương chiếu phải dựa trên nền tảng “đồng chất” về thời gian và không gian
Ngoài việc cần điều chỉnh lập trường và góc nhìn ở tầng triết lý và phương pháp luận, thì xét từ bình diện lý luận học thuật, chúng ta cũng cần tránh hoặc khắc phục một số khuynh hướng lệch lạc trong nghiên cứu so sánh. Chúng ta phải thừa nhận rằng, so sánh là yếu tố nội tại và tất yếu trong nghiên cứu học thuật, nó xuyên suốt toàn bộ quá trình nghiên cứu. Dù chủ đề được chọn là gì, cũng đều không thể thiếu so sánh. Việc lựa chọn tài liệu đòi hỏi phải so sánh, quá trình viết cũng chứa đựng so sánh, việc đánh giá và kết luận cũng là kết quả tự nhiên của so sánh. Điều này được thể hiện rõ ràng trong việc xem xét học thuật quân sự của Trung Quốc và phương Tây.
Nghiên cứu so sánh văn hóa Trung Quốc và phương Tây từ lâu đã là một chủ đề trọng điểm trong giới học thuật. Điều này chắc chắn mang ý nghĩa tích cực, bởi quân sự học, với tư cách là sản phẩm của các nền văn minh khác nhau, tất nhiên tồn tại những khác biệt đáng kể trong văn hóa học thuật quân sự giữa Trung Quốc và phương Tây. Việc khám phá và xác định những khác biệt này, cũng như tóm lược quy luật và đặc điểm biến đổi của mỗi hệ thống, đòi hỏi nghiên cứu so sánh. Tuy nhiên, trong thực tiễn nghiên cứu, thường khó tránh khỏi tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia” hoặc quy kết, diễn giải sai lệch. Mấu chốt của vấn đề nằm ở việc quá nhấn mạnh tính đặc thù của các mâu thuẫn, trong khi bỏ qua hoặc che khuất tính phổ quát của chúng. Nói cách khác, trong quá trình so sánh, một số khía cạnh của sự vật thường được nhấn mạnh trong khi những khía cạnh khác lại bị xem nhẹ hoặc bị làm mờ đi. Kết quả là, có không ít kết luận được đưa ra tưởng đúng mà lại sai và rất đáng để bàn luận lại. Nói cách khác, tuy phương pháp so sánh có giá trị nhất định trong nghiên cứu học thuật, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, so sánh không phải là mục tiêu cuối cùng hay cách tiếp cận duy nhất. Nếu các nhà nghiên cứu không vận dụng phương pháp này một cách thận trọng và phù hợp, nó có thể tạo ra tính phiến diện, gây khó khăn cho việc phơi bày bản chất của sự vật và do đó làm cản trở tiến trình “học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh”. Điều này không phải là một hiện tượng mới lạ trong so sánh đặc trưng văn hóa quân sự giữa Trung Quốc và phương Tây.
Ví dụ, một số kết luận đơn giản cho rằng, phương Tây chú trọng chiến thuật trong khi phương Đông chú trọng chiến lược; phương Tây chú trọng sức mạnh trong khi phương Đông chú trọng mưu lược; phương Tây chú trọng chi tiết và phân tích định lượng trong khi phương Đông chú trọng hệ thống tổng thể và phân tích định tính,… Khi xem xét kỹ hơn, ta sẽ thấy những tuyên bố này có vẻ đao to búa lớn mà lại rất mơ hồ, thiếu căn cứ và không đáng tranh biện. Tôn Tử binh pháp – Hình thiên có đoạn: “Địa sinh độ, độ sinh lượng, lượng sinh số, số sinh xứng, xứng sinh thắng”, và “Quân thắng thì như lấy đơn vị nặng mà cân vật nhẹ, quân bại thì như lấy đơn vị nhẹ mà cân vật nặng vậy”. Đây chẳng phải là sự nhấn mạnh vào việc xây dựng sức mạnh sao? Tôn Tẫn hướng dẫn Điền Kỵ đua ngựa, mách nước dùng ngựa yếu để đấu với ngựa mạnh của đối phương, rồi lần lượt dùng ngựa mạnh và ngựa trung bình đấu với ngựa trung bình và ngựa yếu của đối phương, cuối cùng tuy thua một trận nhưng thắng hai trận. Đây chẳng phải cũng là một hình thức phân tích định lượng dựa trên số liệu sao? Mặc Tử – Thành thủ thập nhị thiên bàn về các phương pháp phòng thủ cụ thể như “chuẩn bị cổng thành”, “chuẩn bị cao địa”, “chuẩn bị hầm hào”, “chuẩn bị nước”, “chuẩn bị thang”,… Đây chẳng phải là sự nhấn mạnh đến các chiến thuật cụ thể sao? Ngay cả Tôn Tử binh pháp cũng chứa đựng nhiều nội dung chiến thuật chi tiết, chẳng hạn như “phép bày quân”, “phép xét địch”, “địa hình có sáu loại”,… Rõ ràng rằng, văn hóa quân sự Trung Quốc và phương Tây đan xen lẫn nhau, “trong anh có tôi, trong tôi có anh” về chủ thể và tôn chỉ cơ bản. Không thể và không nên hoàn toàn đối lập chúng trong một sự so sánh tuyệt đối. Bởi việc nhìn nhận vấn đề thông qua một logic hoàn toàn đối lập sẽ làm cả hai mất đi giá trị và ý nghĩa của sự tương chiếu và bổ sung lẫn nhau.
Vấn đề thuộc về phương pháp luận này, khi áp dụng vào việc phân tích các vấn đề học thuật quân sự cụ thể, chắc hẳn sẽ khiến các nhà nghiên cứu rơi vào tình thế quá tải, tiến thoái lưỡng nan, thiếu trước hụt sau, chạy lòng vòng mà chẳng đi đến đâu.
Trước hết, điều này chủ yếu thể hiện ở sự bất đối xứng và không thể so sánh giữa các đối tượng so sánh. Trong một thời gian dài, việc so sánh truyền thống học thuật và văn hóa quân sự giữa Trung Quốc và phương Tây không phải là sự so sánh giữa những đối tượng đồng chất. Trong hoàn cảnh này, muốn nắm bắt bản chất và giá trị văn hóa của nền học thuật quân sự Trung Quốc và phương Tây là điều hết sức khó khăn. Nghiêm trọng hơn, nó dễ dẫn đến việc đánh mất chủ thể tính, đánh mất chính mình trong tiến trình “học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh”. Nhiều năm trước đây, có một lượng lớn các nghiên cứu so sánh về nền học thuật quân sự Trung Quốc và phương Tây thường lấy văn hóa quân sự phương Tây (thực chất chỉ giới hạn trong văn hóa quân sự cận – hiện đại lấy châu Âu và Mỹ làm trung tâm) và các đặc điểm của nó làm điểm tham chiếu để quan sát, tóm tắt và đánh giá truyền thống văn hóa quân sự cổ đại của chính chúng ta. Điều này khó tránh khỏi dẫn đến việc “gọt chân cho vừa giày”, “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, và tất nhiên là đi ngược lại nguyên tắc cơ bản của chúng ta về “sự học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn minh”.
Cụ thể, nền học thuật và văn hóa quân sự Trung Quốc cổ đại mà chúng ta đề cập đến ngày nay có một đối tượng chỉ định rõ ràng: Hệ thống lý thuyết quân sự và tinh thần văn hóa được thể hiện trong các trước tác quân sự Trung Quốc cổ đại, với đại diện là Tôn Tử binh pháp. Nói cách khác, nội hàm chủ thể của nó là truyền thống học thuật quân sự được đun đúc trong điều kiện xã hội phong kiến. Tuy nhiên, đối tượng được đem ra so sánh (với nó) lại thường là truyền thống học thuật quân sự tư sản cận – hiện đại của phương Tây, với đại diện là các tác phẩm như Bàn về chiến tranh của Clausewitz, Khái luận nghệ thuật chiến tranh của Jomini, Khoa học về chiến thắng của Suvorov, Chiến tranh thiết giáp và Chỉ đạo chiến tranh của Fuller, Chiến lược luận của Liddell Hart, Chiến tranh tổng lực của Ludendorff, Nhập môn chiến lược của Beaufort và Đại chiến lược của Collins,… Trên nền tàng này, việc so sánh truyền thống văn hóa quân sự giữa Trung Quốc và phương Tây không thể là sự so sánh đồng chất. Chúng xuất hiện ở những thời điểm khác nhau, không cùng tồn tại trong cùng một thời gian, không gian hay hình thái xã hội. Việc so sánh truyền thống văn hóa quân sự Trung Quốc, với đại diện là Tôn Tử binh pháp được viết cách đây hơn 2.500 năm và thuộc phạm trù văn hóa phong kiến cổ đại, với truyền thống văn hóa quân sự cận – hiện đại dần hình thành sau Cách mạng Công nghiệp của phương Tây, rõ ràng không phải là một cách làm hợp lý và công bằng.
Hệ thống lý luận quân sự tư sản đã được xây dựng hoàn chỉnh sau khi phương Tây bước vào thời kỳ văn minh cận đại, và ở một mức độ nào đó, nó phản ánh một thực tế khách quan rằng văn hóa cận – hiện đại đã vượt trội so với văn hóa cổ đại. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng hệ thống này bao hàm toàn bộ truyền thống học thuật và văn hóa quân sự của thế giới phương Tây, mà chỉ là nhận thức lý tính về quân sự của xã hội phương Tây trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Chúng ta đều biết, phương Tây cũng từng trải qua xã hội cổ điển (thường được gọi là xã hội nô lệ) và thời trung cổ (thường được gọi là thời kỳ phong kiến). Do đó, những “vật truyền tải” của truyền thống học thuật và văn hóa quân sự phát sinh từ nền tảng của xã hội cổ điển và trung cổ phương Tây chỉ có thể là những tác phẩm như Lịch sử, Lịch sử Chiến tranh Peloponnesian, Anabasis, Ghi chép về cuộc chinh phạt xứ Gaul và Chế độ quân sự La Mã. Do đó, việc so sánh và tương chiếu về truyền thống văn hóa quân sự cổ đại giữa Trung Quốc và phương Tây cần được thực hiện một cách logic bằng cách so sánh các tác phẩm kể trên với các trước tác như Tôn Tử binh pháp, Tư Mã pháp, Úy Liễu Tử, Lục thao, Kỷ hiệu tân thư,… của Trung Quốc. Đây mới là sự so sánh và tương chiếu mang tính đồng chất. Nếu so sánh những thành tựu học thuật quân sự được thể hiện trong các tác phẩm như Ghi chép về cuộc chinh phạt xứ Gaul với nhận thức lý tính về các vấn đề quân sự trong các trước tác Trung Quốc như Tôn Tử binh pháp, thì đặc điểm và giá trị của hai nền văn minh quân sự Trung Quốc – phương Tây có thể được định vị hợp lý và chính xác hơn, đồng thời việc vận dụng các phương pháp so sánh và thực hành tương chiếu giữa các nền văn minh mới có tính khoa học và hợp lý.
3. Sự so sánh và tương chiếu phải lấy việc nhận thức đúng đắn về truyền thống văn hóa quân sự Trung Quốc làm tiền đề
Trong quá trình so sánh và tương chiếu truyền thống học thuật và văn hóa quân sự của Trung Quốc và phương Tây, phương pháp được sử dụng nhiều khi chưa hoàn toàn phù hợp. Điều này cũng thể hiện ở việc một số học giả, khi chưa thật sự am hiểu hay nắm vững nội hàm cơ bản và những đặc trưng chủ yếu của truyền thống học thuật quân sự Trung Quốc, đã vội vã đưa ra phán đoán và kết luận.
Tiền đề cơ bản của việc so sánh và tương chiếu là phải đứng trên lập trường chủ thể tính, trước tiên là quay về nhận thức chính mình, lấy chủ thể của sự so sánh và tương chiếu làm tọa độ rồi mới tiến hành nghiên cứu cụ thể. Nghĩa là, để thực sự hiểu đầy đủ nội hàm, đặc điểm và vị thế lịch sử của một truyền thống văn hóa nhất định, thì trước tiên phải rõ hiểu chính mình, sau đó mới tiến hành nghiên cứu chuyên sâu dựa trên cơ sở này. Không thể hời hợt, chỉ lướt qua bề mặt, càng không thể suy diễn võ đoán hoặc gán ghép tùy tiện. Nếu nói rằng việc tìm hiểu các truyền thống văn hóa và học thuật quân sự phương Tây có thể gặp phải một số khó khăn và trở ngại do rào cản ngôn ngữ và hạn chế trong việc truyền bá thông tin, thì việc có được hiểu biết và nắm vững các truyền thống văn hóa quân sự vốn có của Trung Quốc là tiền đề không thể thiếu để tiến hành so sánh và tương chiếu giữa hai nền học thuật quân sự Trung Quốc – phương Tây, và điều này cũng tương đối dễ đạt được.
Tuy nhiên, thực tế lại không được như mong muốn. Việc đánh mất chủ thể tính trong việc so sánh và học hỏi lẫn nhau, cùng với sự sai về nội dung và đặc trưng của văn hóa quân sự Trung Hoa cổ đại, vẫn thường xuyên xảy ra. Ví dụ, một số người cho rằng: “Các chiến lược gia quân sự Trung Quốc qua các triều đại hiếm khi nghiên cứu chiến thuật, thậm chí có người còn tỏ thái độ khinh thường. Hán thư – Hình pháp chí có viết: ‘Kẻ giỏi đánh trận thì không bày trận.’ Những vấn đề về hoạt động tác chiến không đáng bàn luận… Trong 23.000 cuốn binh thư cổ còn lưu truyền hiện nay, hầu như không mấy khi thấy ghi chép chi tiết về chiến thuật.”[3] Đi kèm với điều này là sự ca ngợi nền học thuật quân sự cận đại phương Tây, cho rằng đặc điểm của nó là dùng những mô thức cụ thể như tiên đề hình học hay công thức hóa học để khái quát quy luật chiến tranh.
Cách tiếp cận này cho thấy ngay trong quá trình tương chiếu, người viết đã tự hạ thấp mình và nhìn về phương Tây với thế “ngước lên” thay vì “nhìn ngang”, và điều này chắc chắn không phải là lập trường và thái độ đúng đắn mà việc so sánh và tương chiếu nên có. Chưa nói đến việc tác giả có thực sự đọc “23.000 cuốn binh thư cổ” hay không, chỉ xét kết luận nêu ra thì đã thấy vô cùng võ đoán. Câu “Kẻ giỏi đánh trận thì không bày trận” vốn xuất phát từ Đạo đức kinh, còn Hán thư chỉ trích dẫn lại. Việc dẫn nguồn Hán thư thay vì Đạo đức kinh cho thấy sự cẩu thả trong học thuật. Hơn nữa, việc hiểu nghĩa của câu nói này lại càng sai lệch hơn. Nó rõ ràng thể hiện lý tưởng dụng binh đề cao “đánh bằng mưu” và “không động binh đao mà thắng” của các nhà tư tưởng cổ đại, chứ không hề liên quan đến việc có coi trọng “chiến thuật” hay không. Sao có thể dựa vào câu nói này để chứng minh rằng các binh gia Trung Quốc cổ đại không chú trọng chiến thuật chứ?
Trên thực tế, kho tàng đồ sộ của binh học Trung Quốc cổ đại chưa bao giờ thiếu những ghi chép và luận giải về các vấn đề chiến thuật cụ thể. Trong Tôn Tẫn binh pháp (Hạ biên) – Thập trận có viết: “Trận có mười loại: Có phương trận, có viên trận, có sơ trận, có số trận, có trận hình mũi nhọn, có trận hình chim nhạn, có trận hình móc câu, có huyền tương trận, có hỏa trận và có thủy trận.” Hơn nữa, các binh thư như Vũ kinh tổng yếu, Vũ bị chí cũng ghi nhận hàng trăm loại “trận pháp” khác. Xét cho cùng, tất cả những “trận pháp” cổ đại đa dạng này đều là hình thức tác chiến ở cấp độ chiến thuật. Bên cạnh “trận pháp”, các tài liệu quân sự cổ đại cũng có rất nhiều ghi chép về các phương thức tác chiến như dã chiến, công thành, hỏa công, thủy công, kỵ chiến, xa chiến, tác chiến nơi sa mạc, tác chiến nơi sông ngòi, tác chiến ban đêm, chiến đấu trong tuyết, tác chiến vùng núi, rừng rậm,… tất cả đều thuộc phạm trù chiến thuật. Như vậy, không phải là trong di sản quân sự cổ đại Trung Quốc không có ghi chép chiến thuật, mà là rất nhiều tư liệu chiến thuật vẫn chưa được chúng ta khai thác, chỉnh lý và nghiên cứu đầy đủ.
Việc tán dương ưu điểm chiến thuật của phương Tây, chẳng hạn nói rằng họ tiến hành tính toán chính xác dựa trên các nguyên lý hình học, rồi dùng đó để hạ thấp truyền thống binh học cổ đại Trung Quốc vốn được cho là “dùng tư duy triết học trừu tượng để giải thích thực tiễn quân sự”, là một sự bịa đặt phiến diện, mâu thuẫn với các sự kiện lịch sử cơ bản, và không phải là một phương pháp so sánh và tương chiếu đúng đắn. Cần biết rằng ở phương Tây, Hannibal đã đánh bại quân đoàn La Mã tưởng như bất khả chiến bại trong Trận Cannae bằng những chiến thuật phi truyền thống. Trong đó chẳng hề có chút bóng dáng nào của suy luận chính xác dựa trên toán học. Đến Napoléon thời cận đại, khả năng dụng binh như thần, đánh đâu thắng đó của ông cũng chẳng phải nhờ “các tiên đề hình học” hay “công thức hóa học” để khám phá ra quy luật chiến tranh. Ngược lại, trong lịch sử Trung Quốc không thiếu những trước tác vận dụng nguyên lý hình học để nhận thức và điều hành chiến tranh. Ví dụ, phương pháp tính phân số và phương pháp khai bình phương được mô tả trong Tôn Tử toán kinh chính là sự vận dụng các nguyên lý toán học vào việc bài binh bố trận. Hơn nữa, sự ra đời và ứng dụng của phương pháp giai thừa trong bát trận thời cổ đại, đến nay dường như vẫn chưa có lời giải thích khoa học. Một số người không hiểu rõ những sự kiện lịch sử này đã tùy tiện tiến hành cái gọi là “so sánh” và bình phẩm về “ưu khuyết” của nền học thuật và truyền thống văn hóa quân sự Trung Quốc -phương Tây. Họ vội vàng kết luận rằng đặc trưng của binh học Trung Quốc cổ đại là coi trọng con người và coi nhẹ kỹ thuật. Như vậy chẳng khác nào sai một ly đi một dặm, để lộ chỗ non nớt và tự phơi bày sự thiếu hiểu biết của mình. Trong trạng thái đánh mất bản thân và thiếu ý thức chủ thể như vậy, “sự học hỏi lẫn nhau” có ý nghĩa giữa hai nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây tất nhiên chỉ là một điều xa vời, chẳng khác nào “ngắm mận đỡ khát” hay “vẽ bánh đỡ đói”.
Tương tự như vậy, nếu bản thân chúng ta còn thiếu hiểu biết về truyền thống văn hoá quân sự lâu đời của chính mình, hoặc đánh giá chưa đúng mức những thành tựu rực rỡ của quân sự học cổ đại Trung Hoa, thì chắc chắn sẽ dẫn đến sự phiến diện khi so sánh nội hàm, đặc trưng và giá trị tư tưởng quân sự của Trung Quốc và phương Tây. Điều này không chỉ thể hiện ở sự chênh lệch về thời gian và không gian, mà đối tượng được lựa chọn để so sánh cũng thường phát sinh vấn đề. Khi tiến hành so sánh tư tưởng quân sự Trung Quốc và phương Tây, các mô hình tham chiếu thường chỉ giới hạn ở một số ít tác phẩm tiêu biểu như Tôn Tử binh pháp, Bàn về chiến tranh hay Khái luận nghệ thuật chiến tranh. Nhưng trên thực tế, dù là ở Trung Quốc hay phương Tây, tư tưởng quân sự được chứa đựng trong vô số “vật truyền tải”, rất phong phú về hình thức và đa dạng về nội dung. Chỉ riêng ở Trung Quốc cổ đại, ngoài “Binh quyền mưu gia” vốn chiếm ưu thế, còn có ba học phái lớn là “Binh hình thế”, “Binh âm dương” và “Binh kỹ xảo”. Mục tiêu học thuật, nội dung tư tưởng, định hướng giá trị, cấu trúc logic, phương thức biểu đạt và phong cách văn bản của chúng rất khác nhau. Chẳng hạn, “Binh hình thế” nhấn mạnh “sự nhanh nhạy, biến hoá linh hoạt, hậu phát chế nhân, lấy tốc độ chế địch”, hoàn toàn so khác với “Binh kỹ xảo” vốn đề cao “luyện tập tay chân, thành thạo khí giới, tích lũy cơ quan để giành ưu thế trong công và thủ”.[4] Do đó, ngay cả Tôn Tử binh pháp – vốn được mệnh danh là “bậc thầy của trăm đời nhà binh”[5] cũng không thể đại diện cho toàn bộ binh học cổ đại Trung Quốc. Nhiều đặc điểm của nó là đặc điểm riêng của Tôn Tử binh pháp, chứ không phải là đặc điểm chung của toàn bộ binh học Trung Quốc. Nếu dùng những đặc trưng văn hóa được trình bày trong Tôn Tử binh pháp để khái quát thành bản chất chung của binh học cổ đại Trung Hoa, thì đó chính là lấy bộ phận để nói toàn thể, dẫn đến sai lệch.
Thật vậy, Tôn Tử binh pháp rất đặc sắc trong việc trình bày về binh lý, với những đặc điểm nổi bật là: “Bỏ sự mà nói lý”, lời ít mà ý sâu, mang màu sắc triết lý và tính trừu tượng rất cao. Các binh thư sau này cũng đi theo khuynh hướng này của Tôn Tử, hình thành truyền thống bàn luận việc binh thông qua triết lý. Các binh thư nổi tiếng như Tôn Tẫn binh pháp, Ngô Tử, Úy Liễu Tử, Lục thao, Tam lược, Lý Vệ Công vấn đối, Trận kỷ, Binh kinh bách thiên, Thảo lư kinh lược, Đầu bút phu đàm,… đều nổi tiếng với nội dung triết lý sâu sắc. Một số binh thư mang tính chất tổng hợp quy mô lớn như Vũ kinh tổng yếu và Vũ bị chí cũng chứa đựng rất nhiều nội dung lý luận quân sự phong phú. Ngay cả những binh thư mang tính kỹ thuật về trận pháp và vũ khí cũng lấy lý luận làm cương lĩnh để biên soạn, từ đó hình thành nên phong cách sáng tác “bỏ sự nói lý” hoặc “dùng lý luận để hệ thống hóa sự kiện” của binh thư Trung Quốc. Về hình thức biên soạn, nhiều binh thư đời sau cũng phỏng theo Tôn Tử binh pháp, chẳng hạn như Đầu bút phu đàm, “phỏng theo di huấn của Tôn Tử binh pháp, nhìn qua một khe hở, sai lệch thành mười ba thiên.”[6] Tuy nhiên, không phải tất cả các binh thư cổ đại đều xuất hiện với đặc điểm này, và do đó không thể bao hàm nội dung và đặc sắc của “Binh âm dương quân sự” hay “Binh kỹ xảo” được tìm thấy trong các tác phẩm như Cái lư, Ngũ Tử Tư thuỷ chiến pháp, Hoả công khiết yếu, Mặc Tử thành thủ thập nhị biên. Do đó, nếu chúng ta chỉ sử dụng đúng hai tài liệu là Tôn Tử binh pháp và Bàn về chiến tranh để tiến hành so sánh tư tưởng quân sự Trung Quốc và phương Tây, rồi cố gắng quy nạp và làm sáng tỏ những đặc trưng riêng biệt của tư tưởng và văn hóa quân sự giữa hai bên dựa trên lượng tài liệu hạn hẹp này, thì chúng ta chắc chắn sẽ rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan “thiếu chỗ này, hụt chỗ kia” và khó tránh khỏi sự phiến diện. Điều này rõ ràng không có lợi cho “sự học hỏi lẫn nhau” giữa hai nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây.
4. Tư duy biện chứng, với tư cách là một phương pháp luận, phải quán triệt toàn bộ quá trình so sánh và tương chiếu
Là những người làm công tác học thuật ở Trung Quốc đương đại, việc kiên định lấy quan điểm, phương pháp luận và lập trường duy vật lịch sử khi tiến hành nghiên cứu so sánh và tương chiếu giữa quân sự học Trung Quốc và phương Tây vẫn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng lý tính khoa học, dùng tư duy biện chứng về mối liên hệ phổ quát và sự thống nhất giữa các mặt đối lập để quan sát và giải quyết vấn đề, đồng thời tránh siêu hình học, lấy bộ phận để nói toàn thể, bảo thủ trì trệ và máy móc cứng nhắc. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, trên phương diện này vẫn còn nhiều không gian cần tiếp tục nỗ lực. Điều này thể hiện ở chỗ một số công trình nghiên cứu đã khái quát đặc trưng của truyền thống văn hóa quân sự Trung Quốc theo lối phiến diện và cơ giới, khiến việc so sánh và tương chiếu đánh mất sức thuyết phục ở một mức độ nhất định.
Cụ thể, một số quan điểm tổng kết về đặc trưng văn hóa quân sự Trung Quốc, khi xem xét kỹ hơn, cho thấy còn nhiều điểm cần thảo luận và tinh chỉnh thêm. Chẳng hạn, chúng ta thường nhấn mạnh rằng tư duy chiến lược của Trung Quốc cổ đại có tính hướng nội, coi trọng phòng thủ và đề cao đạo đức. Điều này tất nhiên là đúng. Văn hóa quân sự truyền thống Trung Quốc bắt nguồn từ nền văn minh nông nghiệp, được đặc trưng bởi sự gắn bó với đất đai và khuynh hướng tự nhiên hướng tới hòa bình và thống nhất – một gen bẩm sinh và cố hữu. Đây đúng là bản chất chủ đạo của văn hóa quân sự Trung Quốc truyền thống. Do đó, từ thời Tiên Tần, các quan niệm “biết binh mà không hiếu chiến”, “trọng võ nhưng không lạm dụng võ lực” đã nhận được sự khẳng định mạnh mẽ nhất. Vào thời đó, bất kể lập trường chính trị và học thuyết khác nhau tới đâu, các nhà tư tưởng đều chia sẻ một điểm chung là phản đối chủ nghĩa quân phiệt. Ví dụ, Đạo gia nhấn mạnh: “Binh khí là vật chẳng lành, không phải khí cụ của người quân tử; bất đắc dĩ mới dùng, lấy điềm đạm làm đầu”;[7] Nho gia chủ trương: “Kẻ thiện chiến phải chịu hình phạt nghiêm khắc”;[8] Mặc gia đề xướng “kiêm ái, tương lợi”, tận lực đề xướng “phi công” (phi chiến); Binh gia chỉ ra rằng: “Kẻ ham chiến tranh tất vong, kẻ ham thắng lợi tất nhục” và “Nước lớn, ham chiến tất bị diệt vong”; ngay trong Pháp gia vốn có xu hướng “chủ chiến”, cũng có không ít người có thái độ dè dặt đối với chủ nghĩa quân phiệt. Ví dụ, Hàn Phi Tử cho rằng: “Binh khí là khí cụ hung hiểm, không thể không cẩn trọng khi dùng.”[9] Kể thời Tần Hán trở đi, định hướng giá trị này vẫn tiếp tục được đề cao trong văn hóa quân sự. Việc nhiệt thành theo đuổi hòa bình và khát vọng chân thành về một cuộc sống ổn định luôn là nhận thức chung phổ quát và là một sự tích lũy sâu sắc trong tâm thức dân tộc. Do đó, những câu nói như “Đạo của tiên vương lấy hòa làm quý, trọng hòa trọng người, không chuộng chiến”[10] thường được tìm thấy trong nhiều tài liệu khác nhau và đã trở thành một chủ trương lý tính phổ biến trong nhân dân.
Tuy nhiên, chỉ nói vậy thôi thì chưa đủ toàn diện và biện chứng. Chúng ta cũng cần thừa nhận rằng, chiến tranh xảy ra khá thường xuyên trong lịch sử Trung Quốc. “Chiến thần” Bạch Khởi nổi tiếng với việc chém đầu 24 vạn người ở Y Khuyết và chôn sống hơn 40 vạn quân ở Trường Bình. Chúng ta cũng nên thấy rằng, sự thống nhất vĩ đại của dân tộc Trung Hoa diễn ra trong sự song hành của những cuộc giao lưu hòa bình và những cuộc chiến tàn khốc. Ngay cả Tôn Tử binh pháp – trước tác kinh điển hàng đầu về binh học – cũng mạnh mẽ đề xướng “phá thành của họ, diệt nước của họ”, “cướp bóc vùng giàu có”, “cướp làng chia dân”, kêu gọi “đánh nước lớn”, “làm cho địch khiếp phục”.
Thật vậy, trong vô số văn thư Trung Quốc cổ đại, có vô vàn những lời chỉ trích đối với việc theo đuổi chiến tranh và chủ nghĩa quân phiệt. Những câu như “Thấy ta say ngủ nơi sa trường chớ cười, xưa nay chiến trận có mấy ai về?”, “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô”, “Giết chóc phải có hạn độ, dựng nước phải có cương vực. Nếu có thể ngăn xâm lăng, đâu cần giết chóc vô độ?”,… đều lên án sự tàn khốc của chiến tranh và kêu gọi hòa bình. Tuy nhiên, nếu suy ngẫm sâu xa hơn thì có thể thấy rằng, việc những điểm này càng được nhấn mạnh, những thảm họa của chủ nghĩa quân phiệt càng bị lên án và tố cáo, thì chẳng phải càng chứng tỏ rằng trong xã hội tồn tại rất nhiều hiện tượng chiến tranh tàn khốc hay sao? Như Lão Tử từng nói: “Khi đại đạo mai một, mới sinh ra nhân nghĩa; khi trí tuệ phát sinh, mới có sự dối trá; khi thân thích bất hòa, mới cần đến hiếu thảo; khi quốc gia hỗn loạn, mới có trung thần.” Nghịch lý của lịch sử nằm ở chỗ, khi giai điệu “Thu phục kẻ thù mà không cần đánh” vang lên, thì cùng lúc đó vẫn có những cảnh tượng chân thực như “Đánh đất đổ máu, đánh thành đổ máu” hay “Máu chảy như biển ở các đồn biên phòng, mà tham vọng mở mang bờ cõi của Hoàng đế vẫn chưa thành”. Vì vậy, trong lúc khẳng định khuynh hướng chủ đạo của “thận chiến” trong văn hóa quân sự truyền thống Trung Quốc, chúng ta cũng nên nhìn nhận những đặc tính khác của nó. Tuy những yếu tố tiêu cực này chỉ là thứ yếu, nhưng sự tồn tại của chúng là không thể phủ nhận. Việc quan sát biện chứng này mới thực sự tuân thủ lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá trình so sánh và tương chiếu. Chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể tránh được việc nhìn nhận và phân tích vấn đề một cách phiến diện, một chiều và tĩnh tại, mà thay vào đó là sử dụng những cùng góc nhìn, phương pháp đa chiều và phát triển để so sánh và tương chiếu các nền văn minh.
Những sai lầm nhận thức mang tính siêu hình, lấy bộ phận để nói toàn thể trong quá trình so sánh và học hỏi lẫn nhau như vậy cũng liên tục được phản ánh trong việc đánh giá đặc trưng văn hóa quân sự phương Tây, gây bất lợi cho sự phát triển lành mạnh của công cuộc học hỏi giữa các nền văn minh. Ví dụ việc gán mác một cách cứng nhắc cho các truyền thống quân sự phương Tây là chủ trương “chiến tranh tuyệt đối” và “bạo lực tuyệt đối”, rồi từ đó đơn giản kết luận rằng chúng thua kém truyền thống quân sự Trung Quốc vốn chủ trương “bạo lực tương đối” và “tính giới hạn có thể kiểm soát được của chiến tranh”. Kiểu so sánh này rõ ràng tồn tại vấn đề. Trong những điều kiện nhận thức như vậy, việc tiến hành học hỏi lẫn nhau giữa hai nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây chỉ là hão huyền. Điều này là bởi nó đi chệch hướng nghiêm trọng khỏi tinh thần cơ bản của phép biện chứng và đã giản lược hóa quá mức các hiện tượng phức tạp.
Về quan niệm chiến tranh, cả phương Đông và phương Tây đều có những cách hiểu khác nhau và chưa từng có một quan điểm thống nhất. Tuy Clausewitz có thể đã nhấn mạnh tính tuyệt đối của chiến tranh và khẳng định vai trò của bạo lực, nhưng phương Tây cũng có “cách tiếp cận gián tiếp” của Liddell Hart và cũng có không ít người đã phê phán gay gắt quan điểm của Clausewitz. Họ thường nhấn mạnh rằng, chiến tranh phải có sự kiềm chế và không được hành động tùy tiện. Ở phương diện này, quan điểm của nhà quân sự học người Anh John Frederick Charles Fuller mang tính đại diện. Ông tuyên bố: “Chiến tranh có thể được chia thành hai loại là chiến tranh với mục tiêu chính trị hữu hạn và chiến tranh với mục tiêu chính trị vô hạn. Chỉ có loại đầu tiên mới mang lại lợi ích cho bên chiến thắng, tuyệt đối không phải loại thứ hai.”[11] “Tín điều tai hại cho rằng mục tiêu cuối cùng của tác chiến là tiêu diệt kẻ thù, về mặt lý luận đã phủ nhận mục đích thực sự của chiến tranh, cụ thể là xây dựng một cuộc sống hòa bình tốt đẹp hơn… Để đạt được mục đích thực sự của chiến tranh, phải chấm dứt việc sử dụng các biện pháp hủy diệt. Nghĩa là, chiến tranh phải dần phát triển từ đấu tranh vũ lực sang đấu trí và đấu sĩ khí; nói cách khác, nghệ thuật chỉ huy về cơ bản phải thay thế bạo lực, dùng sự lung lay tinh thần hay đòn đánh tâm lý thay cho đòn tấn công bằng vũ lực hay phá hoại thân thể.”[12] “Trong chiến tranh, hành vi man rợ là điều không đáng làm. Đừng dồn kẻ thù vào tuyệt vọng. Dù anh có thể giành chiến thắng, nhưng cách làm ấy sẽ kéo dài chiến tranh, gây thêm nhiều tổn thất về tài sản và nhân mạng hơn, mà về cơ bản là bất lợi cho chính anh.”[13] Quan điểm này cũng tương đồng với tư tưởng trong Tôn Tử binh pháp: “Quân bỏ chạy chớ đuổi, quân bị vây phải chừa đường, kẻ cùng đường chớ bức.” Điều này hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc chung của sinh thái học chính trị, tức là “Trừ ác không thể trừ sạch, để lại đối thủ chính là điều kiện để bản thân tồn tại. Không có ngoại họa, quốc gia ắt dễ diệt vong.” Hơn nữa, cũng cần giúp đỡ kẻ thù khi cần thiết: “Trong suốt lịch sử chiến tranh, điều đáng chú ý là mối quan hệ địch – ta thường xuyên thay đổi. Khi đánh bại đối thủ, hãy khôn ngoan để họ đứng dậy. Bởi ở cuộc chiến tiếp theo, có thể anh sẽ cần tới sự giúp đỡ của họ.”[14] Vì vậy, Fuller đã chỉ trích niềm háo hức chiến thắng của Clausewitz một cách mạnh mẽ: “Clausewitz có nhiều nhận định mù quáng, trong đó sai lầm lớn nhất là ông chưa từng nhận ra rằng mục đích thực sự của chiến tranh là hòa bình, chứ không phải chiến thắng. Do đó, hòa bình phải là tư tưởng chủ đạo trong chính sách và chiến thắng chỉ đơn thuần là phương tiện để đạt được mục tiêu này.”[15]
Tương ứng, tuy lập trường và quan điểm “thận chiến” quả thực là xu hướng chủ đạo của văn hóa quân sự trong lịch sử Trung Quốc, nhưng nó cũng đi kèm với những tạp âm “hiếu chiến” và “chủ chiến”. Chẳng hạn, quan điểm về chiến tranh của Pháp gia rõ ràng trái ngược với Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và các Binh gia như Tôn Tử. Trường phái này đề cao sức mạnh và có niềm tin mê muội vào bạo lực. Công thức tính toán thành – bại trong chiến tranh của họ là ai phát triển nông nghiệp tốt hơn thì có thể xây dựng được một đội quân hùng mạnh hơn. Với một đội quân hùng mạnh, dùng luật lệ nghiêm khắc để ràng buộc tướng sĩ và khuyến khích họ bằng những bổng lộc như tiền bạc và chức tước, vậy thì sẽ chẳng có kẻ thù nào không đánh bại được, chẳng có thành trì nào không công phá được và cũng chẳng có đất nước nào không chinh phục được. Trong mắt Pháp gia, chiến tranh là phương thuốc chữa bách bệnh, là con đường tắt để trị quốc, ổn định trật tự và phát triển thực lực, không thể thiếu dù chỉ một khoảnh khắc. Họ tin rằng chân lý đến từ nắm đấm và đúng sai được định đoạt bằng đao kiếm. Phải nói rằng, quan điểm về chiến tranh của Pháp gia là vô cùng thẳng thắn, không hề vòng vo giả tạo, không do dự e dè và chắc chắn có đạo lý nhất định. Tuy nhiên, như người ta vẫn nói, chân lý đi quá một bước sẽ trở thành sai lầm. Khuyết điểm chí mạng của Pháp gia nằm ở niềm tin mù quáng vào sức mạnh quân sự, trong khi xem nhẹ các yếu tố khác có thể kiềm chế chiến tranh, chẳng hạn như sự ủng hộ của dân chúng và giáo dục chính trị. Do đó, Pháp gia có thể tạm thời đắc chí trong thiên hạ, như “Tần Hoàng quét qua sáu nước, ánh mắt uy nghiêm như loài hổ, vung kiếm xua mây mù, chư hầu đều quay về Tây.” Tuy nhiên, nó thường không thể duy trì lâu dài do có quá nhiều hậu họa, khó tránh khỏi cảnh “một người nổi loạn khiến bảy miếu thờ bị hủy hoại, bản thân chết trong tay kẻ khác, trở thành trò cười cho thiên hạ”.[16]
Vậy rốt cuộc thì chúng ta đang so sánh điều gì? Và chính xác thì đang học hỏi được gì từ nhau? Thực ra, đây là một quá trình tư duy mang tính chiến lược, trong đó sự lựa chọn chủ quan kết hợp với các điều kiện khách quan, là kết quả tự nhiên của quá trình phân tích tổng hợp, lựa chọn và ra quyết định. Trong suốt quá trình này, sự chỉ đạo của chủ nghĩa duy vật lịch sử và việc vận dụng phép biện chứng luôn được quán triệt từ đầu tới cuối. Đó là sự cân bằng giữa kinh nghiệm quá khứ và giá trị kỳ vọng, là sự thống nhất giữa việc nêu bật dòng chính và xem xét nhánh phụ, và là sự hòa hợp giữa việc kiên định với bản thân và học hỏi từ người khác, đồng thời đạt được giá trị ưu tiên tối đa trên cơ sở này. Nói cách khác, việc học hỏi lẫn nhau giữa nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây chính là tối đa hóa sự khẳng định, tạo nên sự đồng thuận lớn hơn và đạt được sự chia sẻ nhiều hơn đối với những yếu tố ưu việt đã được kinh nghiệm lịch sử chứng minh và được lý tính nhân loại công nhận rộng rãi. Như vậy, trong quá trình học hỏi lẫn nhau, mỗi bên đều đạt được đều đạt được sự chứng minh tốt hơn và sự tiến bộ lớn hơn. Ví dụ, về quan niệm chiến tranh, cả Trung Quốc và phương Tây đều có chủ trương và thực tiễn về phi chiến, hiếu chiến và thận chiến. Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh rằng: “Nước lớn mà ham chiến ắt sẽ diệt vong, thiên hạ thái bình mà bỏ quên chiến tranh ắt sẽ lâm nguy.” Hiếu chiến hay phi chiến đều không phải lựa chọn đúng đắn, chỉ có thận chiến mới là con đường hợp lý. Do đó, việc học hỏi lẫn nhau ở phương diện này chỉ có thể tập trung vào luận điểm trung tâm này. Theo nghĩa này, sự so sánh và tương chiếu giữa nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây là sản phẩm của sự cân bằng tổng hợp giữa điều kiện khách quan và lựa chọn chủ quan.
Fuller từng nói: “Thế giới không có điều gì hoàn toàn mới. Tôi từng nói, chỉ cần người học nghiên cứu lịch sử một chút là sẽ thấy rằng, nhiều giai đoạn chiến tranh sẽ tái sử dụng những hình thức tác chiến mà về cơ bản là giống nhau. Chỉ cần nghiên cứu và suy ngẫm một chút, ta sẽ nhận ra rằng, tất cả các chiến lược và chiến thuật được sử dụng trong quá khứ, dù là có ý thức hay vô thức, cũng đều được xây dựng dựa trên các nguyên tắc quân sự… Dù quân đội gồm bộ binh, kỵ binh hay bộ binh cơ giới, thì các nguyên tắc bảo toàn lực lượng, tập trung, bất ngờ, an ninh, tấn công, cơ động và phối hợp vẫn luôn được áp dụng. Tóm lại, mô-tơ hóa và cơ giới hóa chỉ thay đổi điều kiện chiến tranh, tức là thay đổi công cụ mà vị tướng sử dụng, chứ không phải các nguyên tắc quân sự của ông ta. Đây là điều rất dễ thấy.”[17] Điều này minh họa cho tính vĩnh cửu và ổn định của các nguyên tắc cơ bản trong quân sự học từ góc độ thời gian. Nhưng thực ra, chẳng phải tính thống nhất và tính phổ biến ấy cũng hoàn toàn đúng ở góc độ không gian sao? Đúng là giữa các tác phẩm quân sự của Trung Quốc và phương Tây tồn tại những khác biệt đáng kể về phong cách ngôn ngữ, kết cấu logic và phương thức mô tả, bởi chúng là sản phẩm của hai nền văn minh quân sự khác nhau. Tuy nhiên, giống như câu nói: “Trăm sông tuy khác nguồn nhưng đều chảy về biển, trăm trường phái tuy làm theo đuổi con đường khác nhau nhưng đều hướng tới trị quốc.”[18] Bất chấp những khác biệt, những vấn đề cốt lõi cơ bản của quân sự học Trung Quốc và phương Tây, chẳng hạn như đề cao tướng lĩnh, linh hoạt đa biến, tập trung binh lực, cân bằng giữa tấn công và phòng thủ, lấy xây dựng sức mạnh làm gốc, coi trọng tinh thần và sĩ khí,… có thể nói là đều nhất quán, tương thông với nhau. Trong hàng ngàn năm, tất cả những điều này đã tiếp nối và củng cố lẫn nhau. Sự nhất quán và tương đồng này vượt xa bất kỳ sự “khác biệt” hay “đối lập” nào. Đây là nền tảng và tiền đề cho “sự học hỏi lẫn nhau” giữa hai nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây. Theo nghĩa này, chúng ta nên nhận thức đầy đủ tính đồng nhất giữa quân sự học Trung Quốc và phương Tây, từ đó hiểu rõ hơn những nội hàm và giá trị vượt thời gian – không gian của tư tưởng và văn hóa quân sự Trung Quốc – phương Tây, đồng thời rút ra những hiểu biết bổ ích từ chúng. Có như vậy, mục đích ban đầu của việc so sánh và tương chiếu giữa các nền văn minh quân sự mới có thể đạt được một cách lý tưởng.
Bài viết này được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn Tử binh pháp kỳ 2 năm 2025.
————
[1] Chu Hoàn (1994). Quan điểm của tôi về lịch sử thế giới và nghiên cứu so sánh, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1.
[2] Lưu Gia Hòa (1996). Nghiên cứu so sánh lịch sử và lịch sử thế giới, Tạp chí Đại học Sư phạm Bắc Kinh, số 5.
[3] “Thử phân tích những khiếm khuyết của truyền thống quân sự Trung Quốc cổ đại”, Tạp chí Khoa học Quân sự, số 6, năm 1989.
[4] Hán thư – Nghệ văn chí – Binh thư lược tự. Ban Cố, Hán thư, Trung Hoa Thư Cục, 1961.
[5] Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, quyển 99, tử bộ 9, mục “Binh gia loại”.
[6] Tây Hồ Dật Sĩ: Đầu bút phu đàm dẫn.
[7] Lão Tử – Chương 31.
[8] Mạnh Tử – Ly Lâu.
[9] Hàn Phi Tử – Tồn Hàn.
[10] Thái Bạch âm kinh, quyển I.
[11] Fuller (2014). “Lời nói đầu”, Chỉ đạo chiến tranh (Triển Húc dịch, Chu Trì hiệu đính), Nhà xuất bản Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, trang 4.
[12] Chiến tranh thiết giáp, trang 54.
[13] Chỉ đạo chiến tranh, “Lời nói đầu”, trang 4.
[14] Chỉ đạo chiến tranh, “Lời nói đầu”, trang 4.
[15] Chỉ đạo chiến tranh, trang 84.
[16] Giả Nghị, Quá Tần luận.
[17] Fuller (2016). Chiến tranh thiết giáp (Chu Đức và cộng sự dịch), Nhà xuất bản Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, trang 13.
[18] Hoài Nam Tử – Phạm luận huấn.
