
Nguồn: Adrian Karatnycky, “Biden’s Long Shadow Over Ukraine,” Foreign Policy, 05/12/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Chính quyền của Biden đã làm Ukraine thất vọng ở hầu hết mọi mặt, theo đó định hình cuộc chiến cho đến ngày nay.
Cuối mùa hè năm 2022, Ukraine đã phát động một cuộc phản công lớn ở miền nam đất nước. Vào ngày 11/11, chiến dịch này đã giải phóng thành phố Kherson và toàn bộ các khu vực trước đây do Nga chiếm đóng ở phía tây Sông Dnipro.
Giữa niềm hân hoan khi Ukraine trở về Kherson, ít có ai chú ý đến cuộc rút lui ngoạn mục của lực lượng bị mắc kẹt của Moscow. Suốt nhiều tuần, ước tính khoảng 20.000 đến 30.000 binh sĩ Nga, bao gồm các đơn vị tinh nhuệ được điều đến để củng cố mặt trận, cùng với một lượng lớn thiết bị quân sự, đã được sơ tán an toàn qua Sông Dnipro bằng phà, phao, và một cây cầu mà trước đó Ukraine từng phong tỏa một phần.
Quân đội Ukraine đã tấn công cây cầu bằng pháo phản lực trước khi rút lui, nhưng sau đó gần như ngừng bắn vào khu vực nút thắt cổ chai dễ bị tấn công này trong nhiều tuần khi phần lớn lực lượng Nga vượt qua. “Rút lui khỏi Kherson trong trật tự là chiến dịch quân sự thành công nhất của Nga trong toàn bộ cuộc chiến,” George Barros, người đứng đầu nhóm nghiên cứu về Nga tại Viện Nghiên cứu Chiến tranh, nói với Foreign Policy. Nếu lực lượng này bị tiêu diệt hoặc buộc phải đầu hàng, đó sẽ là một bước ngoặt trong cuộc chiến – và là một sự sỉ nhục to lớn đối với Điện Kremlin trước toàn thế giới.
Những cuộc trò chuyện gần đây của tôi với một số quan chức cấp cao của Ukraine đã hé lộ những góc nhìn sâu sắc về loạt sự kiện này. Thứ nhất, cuộc rút lui diễn ra trong bối cảnh Mỹ lo ngại rằng một thất bại nhục nhã có thể kích động một cuộc đáp trả hạt nhân chiến thuật của Nga. Thứ hai, Ukraine thiếu đạn dược có tầm bắn đủ xa để tấn công vào cửa sông, một phần là do Washington có những hạn chế nghiêm ngặt về chủng loại và số lượng trang thiết bị mà họ cung cấp. Bất kể sự thật chính xác đằng sau cuộc rút lui bất ngờ không bị cản trở của Nga là gì (và có lẽ nó vẫn sẽ là bí mật sau khi chiến tranh kết thúc), thì những sự kiện xung quanh Kherson là minh chứng cho cách thức mà quyền kiểm soát của Ukraine bị giới hạn xuyên suốt cuộc chiến bởi dòng chảy vũ khí của Mỹ và các nước phương Tây khác – và những hạn chế áp đặt lên việc sử dụng chúng.

Tổng thống Donald Trump thường gọi xung đột Nga-Ukraine là “cuộc chiến của Biden.” Tuyên bố của Trump rằng cựu Tổng thống Joe Biden phải chịu trách nhiệm cá nhân cho cuộc xâm lược tất nhiên là sai: Trách nhiệm duy nhất thuộc về Tổng thống Nga Vladimir Putin – chứ không phải Biden hay Ukraine, như những gì Trump đã tuyên bố. Như hầu hết mọi người trừ Trump đều biết, Putin từ lâu đã đặt câu hỏi về tính chính danh của Ukraine và thèm muốn lãnh thổ của nước này ít nhất là từ năm 2014, khi ông phát động cuộc xâm lược lãnh thổ đầu tiên của Nga nhằm chiếm Crimea và Donbas. Với quy mô tham vọng của Putin, việc ông phát động một cuộc chiến toàn diện chỉ còn là vấn đề thời gian.
Tuy nhiên, nó cũng là cuộc chiến của Biden theo một nghĩa rất khác: Cho đến ngày nay, cuộc xâm lược phần lớn được định hình bởi các quyết định của chính quyền Biden về thời điểm và cách thức trang bị vũ khí cho Ukraine – và bởi cách Mỹ sử dụng viện trợ quân sự làm đòn bẩy để kiềm chế cách thức Ukraine tiến hành chiến tranh. Những quyết định này của Nhà Trắng theo đó đã định hình đáng kể đường nét các cuộc chinh phạt của Nga. Thế trận quân sự hiện tại của Ukraine, các vùng lãnh thổ mà nước này kiểm soát, cùng số thương vong dân sự và quân sự cao của nước này, tất cả đều phần lớn bị định hình bởi những giới hạn mà chính quyền Biden đặt ra về cách Ukraine có thể tiến hành chiến tranh – những giới hạn vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay.
Chắc chắn, di sản của Biden tại Ukraine không chỉ toàn những điều tiêu cực. Nếu không có sự ủng hộ đáng kể từ chính quyền của ông và những nỗ lực thành công của ông trong việc hình thành một liên minh quốc tế ủng hộ Kyiv, Ukraine có lẽ đã không thể giữ được khoảng 80% lãnh thổ của mình. Những bước tiến của Nga cũng không thể chậm lại đến mức suy yếu. Nếu người nắm quyền khi đó là Trump, ông có lẽ đã ưu tiên các thỏa thuận kinh doanh với Moscow hơn là hỗ trợ Kyiv. Tuy nhiên, sự thận trọng quá mức của Biden và những hạn chế chặt chẽ về cách thức chiến đấu của Ukraine gần như chắc chắn đã góp phần làm trì hoãn đợt phản công nhanh chóng của Ukraine vào mùa thu năm 2022, và còn góp phần vào thực tế là, cho đến ngày nay, Nga vẫn cảm thấy ít áp lực phải kết thúc chiến tranh và tìm kiếm bất kỳ thỏa thuận nào ngoài các điều khoản của riêng họ.
Biden rất quan tâm đến số phận của Ukraine và xứng đáng được ghi nhận công lao to lớn vì đã khéo léo xây dựng sự đoàn kết, chia sẻ gánh nặng, điều phối sự hỗ trợ và hợp tác giữa các đồng minh NATO và các nền dân chủ khác. Quả thực, sự đoàn kết mạnh mẽ mà các nhà lãnh đạo châu Âu thể hiện gần đây – và rõ nét nhất là trong cuộc gặp với Trump tại Phòng Bầu dục vào ngày 18/08 – là di sản của việc xây dựng liên minh vô cùng hiệu quả của Biden.

Nhưng những thiếu sót của nhóm Biden và sự thận trọng quá mức trong việc hỗ trợ quân đội Ukraine vẫn cần được đánh giá trung thực.
Thất bại đầu tiên – một di sản của thời Obama, khi Biden còn là phó tổng thống – là việc Biden từ chối cung cấp vũ khí đáng kể cho Ukraine trong bối cảnh Nga củng cố lực lượng dọc biên giới Ukraine, bắt đầu từ tháng 03/2021, chỉ vài tuần sau khi ông nhậm chức. Bất chấp những lời cầu xin của Ukraine về vũ khí mới để bổ sung cho vũ khí chống tăng do chính quyền Trump đầu tiên cung cấp, Biden chọn không làm gì cả.
Ngay cả sau khi Washington chuẩn bị gửi một gói vũ khí khiêm tốn trị giá 200 triệu đô la, Biden vẫn trì hoãn việc gửi viện trợ vì lo ngại căng thẳng leo thang với Putin. Theo một bài báo của NBC News vào giữa tháng 12/2021, Biden quyết định giữ lại khoản viện trợ để “dành thêm thời gian cho các nỗ lực ngoại giao nhằm xoa dịu căng thẳng.” Sự chậm trễ trong viện trợ cứ thế tiếp tục suốt nhiều tuần quan trọng sau khi tình báo Mỹ đã kết luận rằng Nga đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công toàn diện vào Ukraine, theo một báo cáo có nguồn đáng tin cậy trên tờ Washington Post. Do sự chậm trễ của Biden, chỉ một phần trong gói viện trợ tương đối ít ỏi được chuyển giao vào thời điểm Nga tấn công vào tháng 02/2022. Cùng với việc Biden thực sự tán thành đường ống dẫn khí đốt Nord Stream 2 của Nga-Đức, và việc Mỹ rút quân khỏi Afghanistan trong nhục nhã, Điện Kremlin không thể không coi tất cả những điều này là dấu hiệu cho thấy sự yếu kém và thiếu quyết tâm của Washington.
Hơn nữa, trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, đội ngũ của Biden đã giữ lại một khoản viện trợ đáng kể, vì họ tin rằng lực lượng của Ukraine sẽ nhanh chóng bị người Nga đánh bại. Những đánh giá sai lầm của chính quyền đã được Samuel Charap – chuyên gia về Nga được đội ngũ an ninh quốc gia của Biden ủng hộ – lặp lại; ông lập luận trên Foreign Policy rằng “Vũ khí của phương Tây sẽ không tạo ra bất kỳ sự khác biệt nào đối với Ukraine.” Một cựu quan chức cấp cao trong chính phủ Ukraine, người đã tham gia vào các cuộc trò chuyện với phía Mỹ, chia sẻ với tôi rằng ông tin sự chần chừ của Biden phần nào là do thông tin Taliban đã chiếm được vũ khí trị giá hàng tỷ đô la của Mỹ. Biden tin rằng Nga sẽ nhanh chóng tràn vào Ukraine – và lo sợ rằng vũ khí có thể rơi vào tay Putin.
Thực tế đã chứng minh hoàn toàn khác. Tên lửa chống tăng Javelin do chính quyền Trump đầu tiên cung cấp, tên lửa chống tăng NLAW từ Anh, và kho vũ khí của chính Ukraine (gồm các vũ khí sản xuất trong nước và thiết bị thời Liên Xô) – kết hợp với các chiến dịch chiến đấu táo bạo của lực lượng phòng thủ đầy nhiệt huyết dưới sự chỉ huy của Tướng Valery Zaluzhny – đã giúp Ukraine vượt qua khó khăn và đẩy Nga ra khỏi phần lớn lãnh thổ mà họ đã chiếm giữ ban đầu. Những thành công bất ngờ của Ukraine đã tạo cơ hội cho chính quyền Biden và các đồng minh NATO vượt qua nỗi sợ và củng cố sự ủng hộ của mình.

Bất chấp những thành công to lớn của Ukraine, Biden và đội ngũ của ông vẫn khiến Ukraine thất bại ở hầu hết mọi mặt trận trong suốt cuộc chiến. Họ đã giữ lại những vũ khí quan trọng và, vì quá thận trọng, nên đã hạn chế nghiêm trọng cách thức mà Kyiv tiến hành cuộc chiến sinh tồn của họ.
Nỗi sợ leo thang hạt nhân của chính quyền Biden đã đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình sự ủng hộ của Mỹ trong những năm tiếp theo. Nhận thức được điều đó, Điện Kremlin đã khéo léo khơi dậy nỗi sợ bằng những lời đe dọa thường xuyên – một ví dụ điển hình cho cái mà các chiến lược gia thời Liên Xô gọi là “kiểm soát phản xạ,” một loại chiến tranh tâm lý được thiết kế để định hình tư duy của đối thủ. Nhà Trắng của Biden tin vào một biến thể của học thuyết “thống trị leo thang” của Obama – ý tưởng rằng Nga luôn có thể leo thang xung đột để đáp trả bất kỳ viện trợ nào của Mỹ. Từ năm 2014 đến cuối nhiệm kỳ năm 2017, học thuyết này đã được Obama dùng để biện minh cho việc từ chối bất kỳ viện trợ quân sự sát thương nào của Mỹ cho Kyiv.
Dù Nga có thể đã cân nhắc đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật vào đầu cuộc chiến, nhưng đây là một rủi ro mà người Ukraine sẵn sàng chấp nhận. Sau một năm giao tranh ác liệt, những thất bại đáng kể của Nga trên chiến trường (bao gồm cả việc mất phần lớn lãnh thổ đã chiếm đóng) và việc cung cấp các loại vũ khí mới của phương Tây, mối đe dọa leo thang – nếu nó từng tồn tại – đã giảm bớt. Đến lúc đó, tất cả những gì còn lại là chính sách tồn tại dai dẳng của Mỹ nhằm kiềm chế việc Ukraine tiến hành chiến tranh một cách hiệu quả. Hoạt động của chính sách đó được tiết lộ trong cuốn War (Chiến tranh) của Bob Woodward, trong đó có ghi lại một cuộc trao đổi vào ngày 21/10/2022, trong đó Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin nói với người đồng cấp Nga Sergei Shoigu: “Chúng tôi đã cẩn thận không làm một số việc nhất định…. Có một số hạn chế nhất định mà chúng tôi đã đặt ra về cách họ có thể sử dụng những thứ chúng tôi đã cung cấp cho họ.” Câu nói của Austin cho thấy bản chất cách tiếp cận Biden đối với nỗ lực chiến tranh của Ukraine, một chính sách vẫn được áp dụng cho đến ngày nay.
Những ràng buộc của Mỹ vẫn tiếp diễn ngay cả sau khi có những dấu hiệu rõ ràng từ Trung Quốc, đối tác chiến lược chính của Nga, cho thấy Putin sẽ không dùng đến vũ khí hạt nhân. Một nhà ngoại giao cấp cao của Ukraine nói với tôi rằng phía Trung Quốc đã thông báo cho Ukraine rằng Chủ tịch Tập Cận Bình đã trao đổi rõ ràng với Putin rằng lựa chọn hạt nhân là không thể chấp nhận được. Xét đến sự phụ thuộc ngày càng tăng của Putin vào sự hỗ trợ của Trung Quốc, điều này đã thuyết phục các quan chức Ukraine rằng Nga sẽ không mạo hiểm sử dụng vũ khí hạt nhân. Nhưng Washington lại liên tục trì hoãn, chậm trễ, hoặc thẳng thừng phản đối việc chuyển giao các vũ khí chủ chốt có thể giúp Kyiv mạnh mẽ hơn trong việc tiến hành chiến tranh.
Đến cuối tháng 01/2023, nỗi lo của Mỹ về việc Nga được cho là sắp sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật đã phần nào lắng xuống. Thành tích ấn tượng của Ukraine trên chiến trường trong việc giải phóng Kharkiv và Kherson đã dẫn đến những cam kết viện trợ vũ khí mới của phương Tây, bao gồm cả xe tăng chiến đấu chủ lực – dù các đợt chuyển giao vẫn tiếp tục chậm trễ. Tuy nhiên, yêu cầu của Ukraine về vũ khí tấn công sâu để tấn công các mục tiêu quân sự và hậu cần ở hậu phương Nga vẫn không được đáp ứng, điều vẫn luôn xảy ra suốt những năm Biden cầm quyền.


Hồ sơ về sự không sẵn lòng của chính quyền Biden trong việc trang bị vũ khí phù hợp cho người Ukraine thật đáng kinh ngạc. Những yêu cầu ban đầu của Ukraine về bệ phóng tên lửa HIMARS đã không được trả lời cho đến tận mùa hè năm 2022, và quyết định chỉ được đưa ra sau khi thành phố cảng chiến lược quan trọng Mariupol, với dân số khoảng 450.000 người, thất thủ sau một cuộc bao vây khủng khiếp biến nó thành một đống đổ nát. Các ngôi mộ tập thể gần thành phố cho thấy số dân thường và quân nhân Ukraine thiệt mạng có thể lên tới hàng chục nghìn người. Những lời cầu xin của Kyiv về hệ thống phòng không Patriot cũng không được đáp lại trong phần lớn năm 2022, bất chấp các cuộc tấn công tàn bạo và liên tục của Nga vào các mục tiêu dân sự ở các thành phố của Ukraine. Tại sao ngay cả vũ khí phòng thủ thuần túy cũng bị cấm vào thời điểm đó vẫn là bí mật giữa Biden và Cố vấn An ninh Quốc gia lúc bấy giờ là Jake Sullivan.
Phải đến tháng 09/2023, hơn một năm rưỡi sau cuộc xâm lược của Nga, những chiếc xe tăng Abrams đầu tiên mới đến tay lực lượng Ukraine. Và chính London, chứ không phải Washington, vào tháng 05/2023 đã tuyên bố sẽ cung cấp tên lửa tầm xa Storm Shadow cho Kyiv. Việc chuyển giao tên lửa tầm xa ATACMS của Mỹ chỉ bắt đầu vào tháng 10/2023. Ngay cả khi đó, những tên lửa này vẫn bị sửa đổi để giới hạn tầm bắn và đi kèm một hạn chế về việc sử dụng chúng chống lại các mục tiêu quân sự trên lãnh thổ Nga. Hồi mùa hè năm 2024, người Ukraine từng cầu xin được phép tấn công một trong những căn cứ máy bay ném bom chính của Nga chỉ cách biên giới 100 dặm, nhưng yêu cầu của họ đã bị từ chối. Hạn chế này chỉ được dỡ bỏ một phần vào tháng 11/2024.
Chính quyền Biden cũng được cho là đã gây sức ép không cho Kyiv tấn công một số mục tiêu quân sự và hậu cần của Nga, ngay cả trên lãnh thổ có chủ quyền của họ. Một bài báo của tờ New York Times tiết lộ sự phản đối của Mỹ đối với các cuộc tấn công của Ukraine vào một căn cứ không quân Nga ở Crimea và Cầu Kerch, một tuyến đường tiếp tế quan trọng cho quân đội Nga. Bài báo này cũng đề cập đến một chiến dịch bí mật của Ukraine mà Mỹ đã ra lệnh dừng lại theo yêu cầu của Điện Kremlin.
Hơn nữa, chính quyền Biden còn áp đặt những lằn ranh đỏ tùy tiện xuyên suốt cuộc chiến, không chỉ lên chính mình và Ukraine, mà còn lên cả các đồng minh châu Âu. Cụ thể, các đồng minh bị ngăn cản cung cấp một số vũ khí nhất định, bao gồm xe tăng, tên lửa tầm xa, và máy bay chiến đấu F-16 do châu Âu sở hữu; khi các hạn chế được dỡ bỏ trong muộn màng, các máy bay chiến đấu này nhanh chóng trở thành một yếu tố quan trọng trong hệ thống phòng không của Ukraine trước các cuộc tấn công của Nga.
Như Luke Coffey của Viện Hudson viết, “sự chậm trễ đã ảnh hưởng đến việc cung cấp bom chùm, xe tăng, xe chiến đấu bộ binh, và [ATACMS]. Dù cuối cùng Mỹ đã phê duyệt tất cả các hệ thống này, nhưng sự do dự của họ đã khiến Ukraine phải trả giá đắt, buộc họ phải phản ứng thụ động thay vì chủ động.” Nói cách khác, Biden đã buộc Ukraine phải chiến đấu với Nga trong lúc một tay bị trói sau lưng.

Khoản viện trợ ít ỏi từ Mỹ chỉ đủ để ngăn bước tiến của Nga, nhưng nó cũng đủ để giữ cho Ukraine tiếp tục tồn tại như một quốc gia. Trong hoàn cảnh đó, Ukraine dần bắt đầu phát triển và sản xuất hàng loạt một số loại vũ khí mà họ bị từ chối, bao gồm cả tên lửa tầm xa của riêng mình. Điều này cũng tạo điều kiện cho sự xuất hiện của một ngành công nghiệp máy bay không người lái chiến đấu hùng mạnh, làm thay đổi cục diện chiến trường.
Bất chấp những đổi mới của riêng Ukraine, các hạn chế của Biden đối với việc nhắm mục tiêu vào Nga đồng nghĩa là Ukraine có rất ít khả năng tấn công các mục tiêu quân sự và cơ sở hạ tầng bên trong nước Nga, chẳng hạn như các sân bay được sử dụng để thực hiện các cuộc tấn công bằng máy bay ném bom. Vào năm 2024, chính quyền Biden thậm chí còn quản lý vi mô việc sử dụng vũ khí do Kyiv tự sản xuất trong nước, gây áp lực buộc Ukraine phải dừng các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái vào các nhà máy lọc dầu của Nga. Có vẻ như người Ukraine đã nghe theo và chuyển sang các cuộc tấn công vào các kho nhiên liệu, tạo ra các vụ nổ ấn tượng nhưng ít tác động chiến lược. Dưới thời Trump, hạn chế đó đã không còn và Ukraine nhanh chóng phát động một chiến dịch máy bay không người lái cực kỳ hiệu quả nhắm vào các nhà máy lọc dầu của Nga, kết quả là phần lớn nước Nga hiện phải đối mặt với tình trạng thiếu nhiên liệu. Thành công của chiến dịch này cũng chứng minh rằng việc tấn công vào cơ sở hạ tầng dầu mỏ chưa bao giờ là lằn ranh đỏ như chính quyền Biden hình dung.
Những hạn chế của Biden không có nhiều ý nghĩa về mặt quân sự, và chúng tạo ra sự mất cân bằng rõ rệt. Khi tên lửa và máy bay không người lái của Nga làm tê liệt nguồn cung điện, hệ thống sưởi ấm và cấp nước ở các thành phố Ukraine, Ukraine gần như không có khả năng đáp trả tương tự. Các cuộc tấn công của Nga vẫn tiếp diễn không ngừng cho đến ngày nay, giết hại thường dân và xóa sổ hàng ngàn trường học, nhà thờ, bệnh viện, chung cư, và văn phòng của Ukraine. Tính chất một chiều của những cuộc tấn công này cho thấy tác động dai dẳng của các hạn chế do Biden đưa ra.
Cách tiếp cận thận trọng của chính quyền Biden cũng để lại di sản chính trị ngay tại Mỹ. Bế tắc ở Ukraine do việc chuyển giao vũ khí chậm chạp và những hạn chế chặt chẽ trong việc sử dụng chúng đã làm dấy lên nỗi lo về một “cuộc chiến vĩnh cửu” khác, góp phần làm gia tăng sự phản đối từ các đảng viên Cộng hòa thân cận với Trump và có thể đã giúp ích cho Trump trong chiến dịch tranh cử năm 2024.
Hiểu được mong muốn giảm bớt sự hỗ trợ của Mỹ cho Ukraine ngày càng tăng trong số những người bảo thủ MAGA, các Hạ nghị sĩ Cộng hòa Michael McCaul, Mike Rogers, và Mike Turner đã ban hành một báo cáo chi tiết vào tháng 01/2024 kêu gọi dỡ bỏ các hạn chế về vũ khí, cảnh báo rằng chính quyền Biden đã không xây dựng một kế hoạch để đảm bảo chấm dứt chiến tranh. Các nhà lập pháp cáo buộc rằng “[kể từ] ngày đầu tiên của cuộc chiến, sự do dự tai hại của Biden trong việc cung cấp vũ khí quan trọng cho Ukraine đã trì hoãn chiến thắng của Ukraine.” Họ lập luận thêm rằng con đường dẫn đến chiến thắng cho Ukraine “sẽ đòi hỏi phải (1) cung cấp vũ khí quan trọng cho Ukraine với tốc độ tương ứng, (2) thắt chặt các lệnh trừng phạt đối với chế độ Putin và (3) chuyển [300 tỷ đô la] tài sản của Nga bị đóng băng cho Ukraine.”
Trump đã lặp lại lời chỉ trích này khi ông đăng trên Truth Social vào tháng 08/2025 rằng “Biden không để Ukraine ĐÁNH TRẢ, mà chỉ PHÒNG THỦ. Kết quả là gì?” Dù vậy, hầu hết các hạn chế thời Biden đối với hoạt động chiến đấu của Ukraine vẫn được duy trì dưới thời Trump. Thật vậy, như tờ Wall Street Journal đưa tin vào ngày 23/08, chính quyền Trump đã âm thầm ngăn chặn Ukraine bắn tên lửa ATACMS tầm xa vào các mục tiêu ở Nga. Ngay cả theo chính sách mới của Mỹ, trong đó yêu cầu tất cả các lô hàng vũ khí phải được châu Âu hoặc Ukraine thanh toán đầy đủ, thì hầu hết các giao dịch mua vũ khí vẫn bị hạn chế nghiêm ngặt về chủng loại, số lượng, và mục đích sử dụng được phép.
Nếu Biden không áp đặt những lằn ranh đỏ tùy tiện, hoặc để mình bị thao túng bởi việc Điện Kremlin khơi dậy nỗi sợ hạt nhân, Mariupol có lẽ đã không thất thủ, và Ukraine chắc chắn đã duy trì được đà phản công năm 2022, giải phóng được nhiều lãnh thổ hơn trước khi Nga kịp tiến vào. Ukraine cũng sẽ có thể giáng một đòn đau vào quân Nga đang rút lui và thiết bị của họ ở Kherson, đồng thời phá hủy các máy bay ném bom và căn cứ không quân của Nga được sử dụng để gây ra cái chết hàng đêm cho dân thường Ukraine. Ngành công nghiệp dầu khí của Nga – nguồn thu nhập quan trọng nhất của cỗ máy chiến tranh Nga – sẽ bị tê liệt. Và Điện Kremlin có thể đã ngồi vào bàn đàm phán từ lâu, tuyệt vọng tìm cách thoát khỏi một cuộc chiến không thể thắng.
Thay vào đó, việc Biden định hình cuộc chiến ở Ukraine vẫn tiếp diễn dưới thời Trump. Và dù Trump xứng đáng được ghi nhận vì những nỗ lực mạnh mẽ nhằm thúc đẩy chấm dứt giao tranh, nhưng ông khó có thể thành công, như những nỗ lực vụng về của đặc phái viên Steve Witkoff đã cho thấy. Việc đạt được một nền hòa bình lâu dài đòi hỏi phải buộc Putin ngồi vào bàn đàm phán. Để điều đó xảy ra, trước tiên Trump cần chấm dứt cuộc chiến của Biden bằng cách cho phép Ukraine tự chiến đấu hiệu quả hơn. Một cuộc chiến như vậy – được duy trì bởi nguồn tài chính từ châu Âu (bao gồm cả việc sử dụng các tài sản bị đóng băng của Nga), được tạo điều kiện bởi việc sử dụng không hạn chế vũ khí của Mỹ và đồng minh (bao gồm khả năng tấn công các mục tiêu ở Moscow và St. Petersburg), và kèm theo các lệnh trừng phạt thứ cấp mạnh mẽ – vẫn là con đường nhanh nhất để chấm dứt xung đột.
Adrian Karatnycky là thành viên cấp cao tại Hội đồng Đại Tây Dương, nhà sáng lập Myrmidon Group, và là tác giả cuốn “Battleground Ukraine: From Independence to the War with Russia.”
