
Nguồn: Zongyuan Zoe Liu, “China’s Long Economic War,” Foreign Affairs, 16/12/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Cách Bắc Kinh xây dựng đòn bẩy cho cuộc cạnh tranh không hồi kết
Trong phần lớn năm qua, phản ứng của Trung Quốc trước những căng thẳng thương mại đã liên tục khiến phe “diều hâu” ở Washington bất ngờ. Hồi tháng 12/2024, khi chính quyền Biden áp đặt các hạn chế xuất khẩu mới đối với các chip tiên tiến, Bắc Kinh ngay lập tức đáp trả bằng cách cấm xuất khẩu một số nguyên tố kim loại sang Mỹ. Sang tháng 4/2025, sau khi chính quyền Trump đe dọa áp thuế khổng lồ lên Trung Quốc, Bắc Kinh kiên quyết chống trả, áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu nghiêm ngặt lên bảy loại khoáng sản đất hiếm quan trọng cho quốc phòng và sản xuất năng lượng sạch. Kế đó, vào tháng 5, Trung Quốc ngừng mua đậu nành, vốn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn nhất của Mỹ sang Trung Quốc. Và vào tháng 10, sau khi Mỹ mở rộng các hạn chế xuất khẩu hiện có đối với các công ty Trung Quốc sang tất cả các công ty con mà nước này sở hữu đa số, Trung Quốc đã bổ sung thêm năm loại đất hiếm và một loạt các công nghệ chế biến tiên tiến vào danh mục kiểm soát xuất khẩu của mình. Những biện pháp ngày càng táo bạo này không chỉ đặt ra mối đe dọa lớn đối với chuỗi cung ứng của Mỹ và toàn cầu, mà còn gây ra những hậu quả đáng kể trong nước. Thông điệp rất rõ ràng: Trung Quốc sẵn sàng chịu đau đớn để gây sức ép thực sự lên Mỹ.
Cách tiếp cận này tuy táo bạo, nhưng không hề liều lĩnh. Bằng cách lựa chọn trả đũa có tính toán, Bắc Kinh vẫn giữ được không gian đàm phán và để ngỏ các lối thoát. Sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump và nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình gặp nhau tại Hàn Quốc vào cuối tháng 10, Trung Quốc đã đồng ý hoãn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, sự tính toán không nên bị nhầm lẫn với sự yếu đuối. Bên cạnh các động thái đã công bố, Trung Quốc cũng phát triển một kho vũ khí mạnh mẽ gồm các rào cản phi thuế quan và các công cụ pháp lý mà họ có thể sử dụng khi cần. Bằng cách từ bỏ sự kiềm chế chiến lược vốn là đặc điểm trước đây trong cách tiếp cận với Mỹ, Trung Quốc đã cho thấy họ sẵn sàng vũ khí hóa sự thống trị chuỗi cung ứng của mình.
Lập trường cứng rắn này được củng cố bởi các toan tính chính trị trong nước. Các nhà lãnh đạo và nhà đàm phán Trung Quốc quyết tâm không để lặp lại phản ứng dữ dội của công chúng sau thỏa thuận thương mại Giai đoạn Một năm 2020 giữa Bắc Kinh và chính quyền Trump nhiệm kỳ đầu, điều mà đối với nhiều nhà bình luận Trung Quốc là một thỏa thuận bất bình đẳng và gây bất lợi cho Trung Quốc giống như các hiệp ước mà các cường quốc thực dân phương Tây từng áp đặt lên nhà Thanh. Đối với Tập, người đã thề sẽ chấm dứt “thế kỷ ô nhục” của Trung Quốc, một thỏa thuận thiên vị Mỹ khác là điều không thể chấp nhận được về mặt chính trị, và sự sẵn sàng đứng lên chống lại Washington đã trở thành phương tiện để củng cố vị thế của ông với tư cách là nhà lãnh đạo tối cao của đất nước, người mở ra kỷ nguyên “phục hưng dân tộc.”
Tuy nhiên, cách tiếp cận của Bắc Kinh không thể chỉ quy về các chiến thuật trả đũa hay chủ nghĩa dân tộc. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã dành nhiều năm chuẩn bị cho sự trở lại của Trump và xem thương chiến chỉ là một phần trong một cuộc cạnh tranh lớn hơn, có khả năng kéo dài hàng thập kỷ. Trong ngắn hạn, ưu tiên của Bắc Kinh là đảm bảo các nhượng bộ về công nghệ tiên tiến cần thiết để đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành bán dẫn tại Trung Quốc và giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu. Trong trung hạn, họ hướng tới củng cố năng lực công nghệ, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, và chiếm lĩnh thị phần lớn hơn về xuất khẩu giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng toàn cầu để giảm đòn bẩy của Mỹ. Về lâu dài, họ dự định xây dựng một kiến trúc tài chính và thương mại toàn cầu thay thế đủ mạnh để tước bỏ quyền lực trừng phạt đơn phương của Mỹ. Trên hết, Trung Quốc muốn được công nhận rằng các lợi ích cốt lõi của họ nằm ngoài nguy cơ can thiệp của phương Tây – rằng họ có toàn quyền hành động trong vùng ảnh hưởng của mình, bao gồm cả Đài Loan và khu vực ngoại vi, và rằng họ có thể can dự về kinh tế với thế giới dựa trên các điều khoản không kém thuận lợi hơn so với Mỹ hoặc các cường quốc khác.
Về cơ bản, Trung Quốc đang cố gắng thực hiện một kỳ tích địa chính trị chưa từng có tiền lệ. Họ muốn đạt được vị thế ngang hàng với Mỹ mà không kích hoạt “bẫy Thucydides” – xu hướng dẫn đến xung đột giữa các cường quốc đang lên và các cường quốc đã xác lập. Khác với các cường quốc xét lại trước đây, Trung Quốc dự định hoàn thành sự trỗi dậy của mình thông qua sự tích lũy ổn định về sức mạnh và ảnh hưởng kinh tế thay vì thông qua chinh phạt quân sự. Để thành công, họ không chỉ phải trở nên ngang hàng với Mỹ, mà còn phải vượt qua trong một số lĩnh vực, đến mức bất kỳ hành động nào của Mỹ nhằm từ chối công nhận vị thế siêu cường của Trung Quốc sẽ trở nên vô lý trong mắt phần còn lại của thế giới.
Trong lúc cuộc đấu tranh kéo dài này diễn ra, các so sánh song song thông thường về dữ liệu kinh tế hoặc khả năng quân sự khó có thể cung cấp một chỉ báo rõ ràng về việc bên nào đang dẫn trước, bên nào đang tụt lại phía sau, và tại sao. Khi thành công trong một lĩnh vực lại phải trả giá bằng một lĩnh vực khác, thì tác động cuối cùng lên sức mạnh hoặc tầm ảnh hưởng của một quốc gia có thể rất mơ hồ. Như lịch sử đã chứng minh, ảnh hưởng toàn cầu của một quốc gia cũng phụ thuộc vào các phẩm chất ít hữu hình hơn như các giá trị mà nó thể hiện, danh tiếng, và khả năng thu hút các đồng minh và đối tác. Để có một đánh giá tổng thể rõ ràng hơn về hành trình tìm kiếm quyền lực của Trung Quốc, sẽ hữu ích hơn nếu chúng ta mượn một khái niệm từ lĩnh vực đã phát triển mạnh mẽ dựa trên sự không chắc chắn và đánh đổi – tài chính tín dụng. Cụ thể, các ngân hàng và bên cho vay thường đánh giá mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp bằng cách áp dụng một loạt các tiêu chí rộng thường được gọi là “bốn chữ C”: năng lực (capacity), vốn (capital), đặc điểm (character), và tài sản đảm bảo (collateral). Khi chuyển ngữ sang địa chính trị, khuôn khổ này cung cấp một cách thức có cấu trúc để đánh giá sự trỗi dậy liên tục của Trung Quốc và những hàm ý của nó đối với Mỹ.
Với việc Washington rút lui khỏi chủ nghĩa đa phương và ngày càng bị cuốn vào sự phân cực trong nước, Bắc Kinh sẽ tiếp tục khai thác cơ hội để thúc đẩy các mục tiêu địa chính trị của riêng mình. Trên giấy tờ, họ đang ở vị thế tốt để làm điều đó: họ có thể huy động nguồn lực ở quy mô khổng lồ, thống trị chuỗi cung ứng năng lượng xanh, sở hữu quân đội thường trực lớn nhất thế giới, và các công ty trí tuệ nhân tạo của họ đã chứng minh khả năng bắt kịp các đối thủ Mỹ. Nhưng Mỹ vẫn nắm giữ các hình thức ảnh hưởng và quyền lực toàn cầu khác mà Trung Quốc khó có thể sánh kịp. Một phân tích kỹ lưỡng về bốn chữ C cho thấy cuộc cạnh tranh giữa Washington và Bắc Kinh sẽ không chỉ được quyết định bởi việc quốc gia nào có các mô hình AI tốt nhất hoặc có nhiều tàu nhất. Những động lực khó định lượng cũng quan trọng không kém các lợi thế thực nghiệm thô và sức mạnh cứng. Để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh dài hơi này, Mỹ cần hiểu rõ hơn về những gì Trung Quốc đang tìm kiếm, cách họ so kè với sức mạnh của Mỹ trong các lĩnh vực khác nhau, và những điểm mà chính sách của Washington còn thiếu sót.
ĐẤT NƯỚC CỦA TRIỆU TRIỆU CON NGƯỜI
Sức mạnh toàn cầu của Trung Quốc được xây dựng dựa trên dân số và tài nguyên khổng lồ, hay những gì có thể được gọi là năng lực (capacity) của họ. Ngay từ thế kỷ 13, Marco Polo đã kinh ngạc trước quy mô của các thành phố, sự giàu có và lãnh thổ của Trung Quốc trong cuốn Những cuộc du hành của Marco Polo, vốn có tựa gốc tiếng Ý là “Il Milione,” hay “Triệu phú.” Ngày nay, sự rộng lớn đó đã cho phép Trung Quốc huy động các nguồn lực cho tăng trưởng ở quy mô và tốc độ làm lu mờ hầu hết các đối thủ cạnh tranh. Năm 1978, Trung Quốc nằm trong số những quốc gia nghèo nhất thế giới, với GDP bình quân đầu người khoảng 157 đô la, chưa bằng một phần sáu mươi của Mỹ và chưa bằng một phần mười của Brazil. Hiện nay, họ là nền kinh tế lớn thứ hai, xuất khẩu nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên trái đất.
Sự trỗi dậy chưa từng có này được xây dựng trên lưng những lao động nhập cư dễ bị bóc lột của Trung Quốc, một bộ phận của lực lượng lao động đã tăng từ khoảng 30 triệu vào năm 1989 lên gần 300 triệu vào năm 2024. Nhóm công nhân được trả lương thấp này đã thúc đẩy sự tăng trưởng bùng nổ của đất nước, vận hành các nhà máy, cảng biển, xây dựng cơ sở hạ tầng, và biến Trung Quốc thành công xưởng công nghiệp của thế giới. Ngày nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc đang đánh cược rằng đội quân khổng lồ gồm các kỹ sư và nhà khoa học của đất nước có thể làm điều tương tự cho công nghệ và đổi mới. Trung Quốc đã gần bắt kịp Mỹ trong việc chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc hiện xuất bản nhiều bài báo trên các tạp chí khoa học hàng đầu và nộp nhiều đơn xin cấp bằng sáng chế hơn hẳn các đồng nghiệp Mỹ. Đằng sau những con số này là một nguồn nhân tài sâu rộng: Trung Quốc đào tạo ra khoảng 3,6 triệu cử nhân STEM hàng năm, gấp hơn bốn lần tổng số của Mỹ.
Tuy nhiên, năng lực khổng lồ này cũng đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của Trung Quốc. Nó đã khiến nền kinh tế bị lệch pha và phụ thuộc vào các thị trường nước ngoài để hấp thụ sản lượng dư thừa, dẫn đến xích mích ngày càng tăng với nhiều chính phủ phương Tây. Và sự thống trị về công nghiệp và chuỗi cung ứng của Trung Quốc cũng khiến nhiều quốc gia tìm cách giảm sự phụ thuộc vào nước này, làm xói mòn nguồn đòn bẩy chính của Bắc Kinh. Do đó, sức mạnh công nghiệp phi thường của Trung Quốc tạo ra một nghịch lý: nước này có thể sản xuất hầu hết mọi thứ với giá rẻ và quy mô khổng lồ, nhưng càng sử dụng sức mạnh này, thế giới càng quay lưng lại với họ nhanh hơn.

Sự tập trung gần như duy nhất của Bắc Kinh vào việc xây dựng cơ sở công nghiệp cũng kìm hãm sự phát triển của một thị trường nội địa cân bằng. Cầu hộ gia đình yếu kinh niên đã ngăn nền kinh tế Trung Quốc trở thành một động cơ tự vận hành. Để tiêu dùng hộ gia đình chiếm tỷ trọng trong GDP ở Trung Quốc ngang bằng với ở Mỹ, trung bình mỗi gia đình Trung Quốc sẽ phải tiêu thụ thêm hơn 70% – một yêu cầu quá khó. Trên thực tế, tăng trưởng chi tiêu tiêu dùng của Trung Quốc đã trượt xuống mức thấp nhất trong hơn một thập kỷ, với tăng trưởng doanh số bán lẻ vào năm 2024 chỉ khoảng 3,5%, thấp hơn nhiều so với mức tăng hai con số của những năm trước. Giá tiêu dùng giảm so với cùng kỳ năm trước trong vài tháng của năm 2025, báo hiệu áp lực giảm phát trong một số bộ phận của nền kinh tế. Giá cả giảm làm giảm lợi nhuận doanh nghiệp, vì thế làm tăng thêm chi phí kinh tế thực sự của việc duy trì năng lực công nghiệp cồng kềnh.
Năng lực công nghiệp khổng lồ của Trung Quốc đã khiến nước này đặc biệt phụ thuộc vào Mỹ. Ngoài việc là điểm đến hàng đầu cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc, Mỹ còn đóng vai trò là nguồn cung quan trọng các thực tiễn tốt nhất mà các nhà hoạch định chính sách và công ty Trung Quốc đã liên tục dựa vào để xây dựng cách tiếp cận của riêng họ đối với phát triển công nghiệp, tài chính, công nghệ, và quân sự. Ngay cả trong các lĩnh vực mà các công ty Trung Quốc từ lâu đã vượt xa các đối thủ cạnh tranh Mỹ, chẳng hạn như xe điện và pin, Mỹ vẫn là một nguồn tài năng, mạng lưới nghiên cứu, và cầu không thể thiếu. Những thực tế này góp phần vào câu đố hóc búa mà Tập phải đối mặt khi đàm phán với chính quyền Trump nhiệm kỳ thứ hai: nếu Trung Quốc muốn cuối cùng có thể tự đứng vững trước Mỹ, trước tiên họ phải kéo đối thủ lại gần hơn để có thể dựa vào chuyên môn của Mỹ trong bán hàng và thiết kế sản phẩm.
Lịch sử đã chỉ ra rằng chỉ riêng năng lực không tạo nên một siêu cường. Vào đầu thế kỷ 20, người Đức tự hào có cơ sở công nghiệp hàng đầu thế giới và tài năng kỹ thuật đỉnh cao, nhưng cuối cùng vẫn thất bại trong việc thiết lập bá quyền khu vực bền vững. Bắt đầu từ những năm 1960, Nhật Bản đã tận hưởng nhiều thập kỷ thống trị trong sản xuất xe hơi và điện tử, nhưng lại chẳng thể chuyển đổi lợi thế này thành quyền lực địa chính trị trước khi phần còn lại của thế giới bắt kịp. Ngay cả khi năng lực giúp tạo ra một siêu cường, vị thế đó có thể chỉ tồn tại trong thời gian ngắn nếu các thuộc tính còn lại yếu hơn. Liên Xô đã phát triển một ngành công nghiệp và khoa học rộng lớn và đạt được những kỳ tích kỹ thuật ngoạn mục, chẳng hạn như chuyến bay vào vũ trụ đầu tiên và kho vũ khí hạt nhân lớn nhất thế giới. Tiếc thay, “căn bệnh xơ cứng” về chính trị và hành chính, kết hợp với nền kinh tế nhà nước mất cân đối, cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của họ. Ngày nay, Trung Quốc đang sở hữu năng lực công nghiệp của một siêu cường, nhưng họ vẫn phải sánh kịp sức mạnh đó trong các lĩnh vực khác để hoàn thiện vị thế siêu cường trong địa chính trị.
GIÀU CÓ NHƯNG CHƯA VẺ VANG
Cùng với năng lực, các siêu cường đầy tham vọng cần phải có nguồn vốn (capital) khổng lồ – khả năng triển khai các khoản tiền lớn để gây ảnh hưởng đến hành vi và định hình kết quả ở nước ngoài. Trung Quốc hiện nắm giữ hơn 3,3 nghìn tỷ đô la dự trữ ngoại hối chính thức, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Sự kiểm soát gần như hoàn toàn của Đảng Cộng sản đối với hệ thống tài chính của Trung Quốc cũng cho phép họ đầu tư các quỹ nhà nước với tốc độ và quy mô gần như không thể tưởng tượng được ở bất kỳ nơi nào khác.
Hơn nữa, Trung Quốc đã chuyển đổi kho dự trữ ngoại hối khổng lồ của mình thành một công cụ tích cực của ngoại giao tài chính thông qua các quỹ đòn bẩy chủ quyền. Các phương tiện này tài trợ cho các chính sách công nghiệp của đảng, hậu thuẫn cho các thương vụ thâu tóm chiến lược của các công ty Trung Quốc ở nước ngoài, cũng như hợp tác với các tổ chức nước ngoài để giảm sự kháng cự chính trị đối với vốn Trung Quốc. Ví dụ, tại hội nghị thượng đỉnh năm 2024 của Diễn đàn Hợp tác Trung Quốc-Châu Phi, Tập đã cam kết hơn 50 tỷ đô la các khoản vay định giá bằng đồng nhân dân tệ cho các nước châu Phi, phần lớn được bảo lãnh bởi Ngân hàng Phát triển Trung Quốc và các tổ chức khác do nhà nước hậu thuẫn. Những khoản vay này vừa là để đảm bảo sự ủng hộ chính trị cho các doanh nghiệp đang mở rộng của Trung Quốc, vừa là để thúc đẩy việc sử dụng đồng nhân dân tệ trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, sức mạnh vốn và tài chính của Trung Quốc thực chất bị hạn chế hơn so với những con số trong các tít báo. Hãy xem xét vị thế tổng thể của đồng nhân dân tệ trong hệ thống tài chính toàn cầu. Trên giấy tờ, sự ưu việt của đồng đô la Mỹ có vẻ dễ bị tổn thương khi chỉ chiếm 56% phân bổ dự trữ toàn cầu, mức thấp nhất trong 30 năm. Nhưng bất chấp vị thế là quốc gia thương mại hàng đầu thế giới của Trung Quốc, phần lớn thị phần đã mất của đồng đô la không chuyển sang đồng nhân dân tệ hay các loại tiền tệ khác, mà chuyển sang vàng và các tài sản phi chủ quyền khác. Kể từ năm 2008, các ngân hàng trung ương đã tăng lượng vàng nắm giữ thêm 25%, lên mức cao nhất kể từ năm 1970. Ngược lại, đồng đô la vẫn vượt xa đồng euro, vốn chiếm khoảng 20% phân bổ dự trữ, và đồng nhân dân tệ, chỉ chiếm 2%. Cho đến nay, việc đa dạng hóa khỏi đồng đô la có lẽ không phải là nhằm ủng hộ cho một loại tiền tệ thay thế, mà chỉ phản ánh của lòng tin đang suy giảm vào trật tự tài chính do Mỹ dẫn đầu.
Dù vậy, Trung Quốc đã và đang xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính để giảm sự phụ thuộc toàn cầu vào đồng đô la, nếu không muốn nói là thay thế nó hoàn toàn. Năm 2024, Hệ thống Thanh toán Liên Ngân hàng Xuyên Biên giới (CIPS) của Trung Quốc tăng trưởng 47%, so với mức tăng trưởng chỉ 12% của SWIFT, hệ thống liên ngân hàng do phương Tây thống trị, chịu trách nhiệm chuyển hầu hết số đô la của thế giới giữa các quốc gia. Hiện tại, CIPS chỉ xử lý một phần nhỏ các giao dịch toàn cầu so với SWIFT, nhưng hệ thống này có đủ năng lực để mở rộng quy mô nhanh chóng. Ví dụ, sau cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine năm 2022, các chính phủ phương Tây đã trục xuất các ngân hàng Nga khỏi SWIFT. Để vượt qua các lệnh trừng phạt của phương Tây, các thực thể Nga bắt đầu chuyển sang CIPS, và ngày nay, gần như toàn bộ thương mại Trung-Nga – 99% – được thực hiện bằng đồng nhân dân tệ và đồng rúp.
Nhưng để thực sự thách thức đồng đô la, Trung Quốc phải cho phép đồng nhân dân tệ có thể chuyển đổi hoàn toàn, đồng thời dỡ bỏ các biện pháp kiểm soát vốn – nền tảng của hệ thống kìm hãm tài chính của họ. Họ cũng cần cho phép người nước ngoài nắm giữ tài sản định giá bằng đồng nhân dân tệ ở quy mô lớn hơn nhiều. Họ đã đạt được một số tiến bộ: kể từ năm 2020, lượng trái phiếu định giá bằng đồng nhân dân tệ do người nước ngoài nắm giữ đã tăng 83%, lên 597 tỷ đô la. Nhưng con số đó vẫn cần tăng thêm hơn 20 lần mới có thể sánh ngang với lượng trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu chính phủ Mỹ mà nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ. Chừng nào Trung Quốc còn chưa cho phép nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường nợ của mình ở mức độ sâu rộng hơn, thì đơn giản là không có đủ tài sản định giá bằng nhân dân tệ để các nhà đầu tư thay thế đồng đô la, ngay cả khi họ muốn làm vậy.
Trong khi đó, mô hình tăng trưởng của Trung Quốc đang đạt đến giới hạn. Chính những cơ chế đã từng thúc đẩy sự trỗi dậy của nước này – một hệ thống tài chính do nhà nước thống trị, tiêu dùng bị hạn chế, và tăng trưởng phụ thuộc vào xuất khẩu – lại đang kìm hãm tương lai của nó. Suốt hàng chục năm, chính phủ đã sử dụng kiểm soát vốn, lãi suất tiền gửi thấp, và một đồng tiền bị định giá thấp để hướng dòng tiền tiết kiệm của hộ gia đình đổ vào các khu vực công nghiệp. Về thực chất, các hộ gia đình Trung Quốc đã trợ cấp cho sự trỗi dậy của đất nước thông qua các khoản lợi nhuận bị mất đi trong khi phần còn lại của thế giới vung tiền vào hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc. Mô hình đó không còn bền vững nữa: dự trữ ngoại hối gần như không tăng kể từ năm 2017, và chi phí xã hội của việc kìm hãm tài chính đang ngày càng chồng chất.

Dân số già hóa của Trung Quốc giờ đây thiếu tiền tiết kiệm để tự nuôi sống mình. Những người lao động trẻ tuổi phải gánh vác gánh nặng chăm sóc cho cha mẹ hai bên nội ngoại giữa bối cảnh chi phí sinh hoạt tăng cao và tiêu dùng hộ gia đình yếu, dẫn đến sự sụt giảm trong cầu nội địa. Tỷ lệ lập gia đình tại Trung Quốc – tỷ lệ người trưởng thành thành lập một hộ gia đình mới trong một khoảng thời gian nhất định – thuộc hàng thấp nhất trên thế giới, và dân số đã bắt đầu giảm vào năm 2023, sớm hơn nhiều so với dự đoán của các nhà hoạch định Trung Quốc. Cuối cùng, Trung Quốc sẽ phải thu hẹp các khoản đầu tư nước ngoài để tài trợ cho phúc lợi xã hội.
Chính phủ Tập đang đánh cược rằng công nghệ mới có thể bù đắp cho những áp lực tài chính này – rằng Trung Quốc có thể đổi mới để thoát khỏi sự suy giảm nhân khẩu học và xuất khẩu để thoát khỏi tình trạng dư thừa năng lực công nghiệp. Giả định ở đây là bằng cách đạt được và duy trì sự thống trị toàn cầu trong các ngành công nghiệp tiên tiến, Bắc Kinh sẽ tạo ra đủ sự thịnh vượng để khắc phục các điểm yếu cơ cấu trong nước. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi khả năng cân bằng trong tình trạng bấp bênh: duy trì tăng trưởng, duy trì ổn định xã hội, và quản lý sự suy giảm nhân khẩu học cùng một lúc. Thất bại trong bất kỳ nhiệm vụ nào trong số này cũng có thể đảo lộn nỗ lực giành vị trí lãnh đạo kinh tế toàn cầu của Trung Quốc.
Như Bắc Kinh đang dần nhận ra, dù vốn có thể được triển khai linh hoạt hơn năng lực, nhưng nó cũng có thể cạn kiệt và hiếm khi tự mình quyết định tất cả. Nguồn lực tài chính dồi dào không đảm bảo quyền lực lâu dài. Hồi thế kỷ 16, đế quốc Tây Ban Nha đầy ắp bạc nhập khẩu từ Tân Thế giới, nhưng sự mong manh trong cấu trúc của đế chế đã ấn định ngày tàn của nó. Quá trình tích lũy vốn của Trung Quốc cũng đi kèm với những trách nhiệm pháp lý riêng: được xây dựng dựa trên sự đàn áp trong nước và sự phụ thuộc vào xuất khẩu, nó còn bị ràng buộc bởi vị thế tương đối nhỏ của đồng nhân dân tệ trong hệ thống quốc tế, theo đó hạn chế đòn bẩy tài chính của Trung Quốc ở nước ngoài. Sau cùng, sự trỗi dậy thành siêu cường của nước này sẽ không chỉ phụ thuộc vào năng lực công nghiệp và vốn, mà còn vào khả năng của các nhà lãnh đạo trong việc chuyển đổi tài sản quốc gia thành ảnh hưởng toàn cầu bền vững.
ĐOÀN KẾT MÀ KHÔNG CÓ LÒNG TRUNG THÀNH
Trong phân tích tín dụng, đặc điểm (character) của một công ty – phương thức kinh doanh và vun đắp thiện chí đã được xác lập – liên quan đến cách công ty đó sử dụng năng lực và vốn của mình. Tương tự, đặc điểm của Trung Quốc, hay cách họ khẳng định mình trên trường quốc tế, có thể được hiểu bằng cách xem xét cách họ sử dụng cơ sở công nghiệp khổng lồ và nguồn lực tài chính của mình. Được dẫn dắt bởi cương lĩnh riêng, Bắc Kinh có xu hướng sử dụng sức mạnh kinh tế theo các nguyên tắc của riêng mình thay vì các chuẩn mực toàn cầu hoặc kỳ vọng bên ngoài. Cách tiếp cận của Bắc Kinh không thể tách rời khỏi việc Đảng Cộng sản theo đuổi tính chính danh trong nước, vốn phụ thuộc vào những lời hứa mang lại sự thịnh vượng kinh tế ngày càng lớn, và chấm dứt thế kỷ ô nhục của Trung Quốc dưới bàn tay của các cường quốc phương Tây. Ngoài việc biện minh cho quyền lực của đảng ở trong nước, câu chuyện về nỗi oan ức lịch sử này cung cấp nền tảng cho một chính sách đối ngoại quyết đoán, kích động các lời kêu gọi lặp đi lặp lại của Bắc Kinh về chủ quyền và không can thiệp, cũng như các tuyên bố về sự đồng cảm với các nước đang phát triển trên khắp thế giới.
Tuy nhiên, lập trường đạo đức của Trung Quốc đặt ra những ràng buộc. Từ những năm 1980 đến đầu những năm 2010, Bắc Kinh nhấn mạnh quan hệ đối tác với Mỹ và phương Tây; “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” phụ thuộc vào sự hội nhập vào hệ thống thương mại toàn cầu do Mỹ dẫn đầu và quyền tiếp cận công nghệ cũng như tài chính của phương Tây. Nhưng đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, hội nhập chưa bao giờ là mục tiêu cuối cùng. Nó chỉ đơn thuần là phương tiện để tăng tốc hiện đại hóa và khôi phục sức mạnh quốc gia. Mục tiêu lớn hơn của đảng là học hỏi từ phương Tây mà không trở thành phương Tây.
Khi sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung Quốc tăng lên, còn Washington vỡ mộng với sự tự do hóa bị đình trệ của họ, quan hệ dần trở nên xấu đi và đảng bắt đầu điều chỉnh lại chính sách. Kể từ năm 2018, Tập quyết định gác lại tiến trình hội nhập và đưa tự lực cánh sinh trở thành nguyên tắc tổ chức trong chiến lược quốc gia của Trung Quốc. Sự thay đổi này được củng cố bởi các hạn chế của chính quyền Trump nhiệm kỳ đầu đối với các gã khổng lồ công nghệ Trung Quốc như Huawei, điều đã phơi bày điểm yếu của Trung Quốc trước các biện pháp kiểm soát xuất khẩu. Để đáp trả, “phục hưng dân tộc” được định nghĩa là tự chủ và cách ly khỏi áp lực của phương Tây. Quan hệ của Trung Quốc với Mỹ và các đồng minh của họ do đó đã phát triển từ can dự thực dụng sang khác biệt có nguyên tắc.
Tuy nhiên, Bắc Kinh không tìm cách xuất khẩu một bộ giá trị Trung Quốc, thay thế hoặc đưa ý thức hệ của mình ra nước ngoài, như Liên Xô đã từng làm. Thay vào đó, mục tiêu của họ gần như hoàn toàn mang tính chiến lược: định hình lại các chuẩn mực toàn cầu xoay quanh chủ quyền và phát triển theo những cách thúc đẩy lợi ích riêng của họ. Bằng cách tự định nghĩa mình chủ yếu bằng các thuật ngữ mang tính phủ định – không phải phương Tây, không tự do, không phụ thuộc – Bắc Kinh đã thành công trong việc vun đắp sự đoàn kết giữa một số quốc gia, nhưng lại gặp khó khăn trong việc truyền cảm hứng cho lòng trung thành thực sự.
Ảnh hưởng toàn cầu của Trung Quốc càng bị hạn chế bởi sự tương đồng văn hóa yếu ớt với các quốc gia khác. Khác với các cường quốc phương Tây thuộc về các liên minh được củng cố bởi di sản, ngôn ngữ, và giá trị chung, Trung Quốc thiếu các liên kết văn hóa hoặc xã hội tương đương. Các quan hệ đối tác của họ không dựa trên nghĩa vụ đạo đức hoặc quan hệ họ hàng lịch sử, mà phần lớn mang tính giao dịch. Quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng và những nước có văn hóa gần gũi nhất, Việt Nam và Đài Loan, vẫn nằm trong số những quan hệ đối địch nhất. Và dù cộng đồng người Hoa ở nước ngoài rất lớn và cực kỳ năng nổ về kinh tế – rất nhiều thành phố lớn trên thế giới có Phố Tàu – đảng xem người Trung Quốc sống ở nước ngoài là nguồn rủi ro tiềm tàng về ý thức hệ và đã từng giám sát và đe dọa họ. Trong cả hai trường hợp, cách tiếp cận của Bắc Kinh cản trở việc hình thành các quan hệ hữu cơ, dựa trên lòng tin giữa Trung Quốc và các xã hội khác, tạo ra sự thâm hụt quyền lực mềm dai dẳng.
Chủ nghĩa thực dụng phòng thủ của Trung Quốc cũng khiến nước này chần chừ đóng vai trò mang tính xây dựng trong việc giải quyết xung đột. Chẳng hạn, dù tuyên bố mình là một cường quốc trung lập, Bắc Kinh vẫn duy trì sự đoàn kết với Moscow trong cuộc chiến ở Ukraine dưới ngọn cờ chống lại “bá quyền” phương Tây. Lập trường thân Nga đã nuôi dưỡng những lo ngại ngày càng tăng ở châu Âu, nơi các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách ngày càng xem Trung Quốc vừa là một đối thủ kinh tế, vừa là một mối đe dọa an ninh. Những căng thẳng như vậy giải thích tại sao Trung Quốc thường nhận được sự tôn trọng, nhưng không phải là tình cảm yêu mến. Họ được xem là đáng gờm, nhưng không hoàn toàn đáng tin cậy; giới lãnh đạo của họ mạnh mẽ, nhưng không hoàn toàn chính danh. Vì thiếu khả năng lãnh đạo về mặt đạo đức để bổ sung cho sức mạnh vật chất, nên vai trò toàn cầu của Trung Quốc vẫn là vai trò của một cường quốc cần được quản lý – và có lẽ là phải e sợ – chứ không phải là một cường quốc để đi theo.
NGỜ VỰC VỀ TRUNG HOA
Nếu năng lực định nghĩa những gì một quốc gia có thể làm, vốn xác định các nguồn lực mà quốc gia đó có thể sử dụng, và đặc điểm mô tả cách quốc gia đó chọn hành động trên trường quốc tế, thì chữ C thứ tư giải quyết một câu hỏi khó nắm bắt hơn. Trong phân tích tín dụng, chức năng của tài sản đảm bảo (collateral) được dùng để trấn an các bên cho vay khi thiếu sự tin tưởng rằng một công ty sẽ trả các khoản vay của mình đúng hạn. Trong địa chính trị, điều này có thể được gọi là sự tín nhiệm (credibility), hay việc liệu một quốc gia có thể thuyết phục các quốc gia khác rằng họ sẽ thực hiện đúng các lời hứa và ý định của mình hay không. Đạt được sự tín nhiệm được cho là điều kiện tiên quyết tối thượng cho vị thế siêu cường. Nó không thể được mua hoặc tuyên bố bằng sắc lệnh; nó phải được tạo dựng thông qua thực tiễn. Nó là chất keo duy trì các liên minh, ổn định các kỳ vọng, và biến ảnh hưởng thành quyền lãnh đạo toàn cầu.
Sự tín nhiệm là khía cạnh yếu nhất trong sức mạnh địa chính trị của Trung Quốc. Dù có năng lực khổng lồ, sự giàu có vượt bậc, và dấu ấn mở rộng ở nước ngoài, nước này vẫn phải đối mặt với sự hoài nghi dai dẳng về ý định của mình. Trung Quốc đầu tư mạnh mẽ vào các chiến dịch quốc tế để thể hiện sự đáng tin cậy và tính chính danh của mình – bao gồm ngoại giao khí hậu, lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc, và đặc biệt là Sáng kiến Vành đai và Con đường trải rộng, chương trình phát triển toàn cầu mà qua đó Trung Quốc đã chi khoảng 1,3 nghìn tỷ đô la và ký kết thỏa thuận với khoảng 150 quốc gia. Nhưng bất chấp quy mô to lớn của chúng, những nỗ lực này vẫn không mang lại sự tín nhiệm mà Bắc Kinh tìm kiếm. Trong một số trường hợp, Trung Quốc đã phóng đại những đóng góp thực tế của mình, gieo rắc sự ngờ vực về chương trình nghị sự của họ. Ví dụ, họ tự thể hiện mình là một nguồn tài chính phát triển quốc tế hàng đầu, dù các ngân hàng phát triển đa phương, các nhà đầu tư tư nhân, và các bên cho vay truyền thống phương Tây vẫn chiếm tỷ trọng tích lũy lớn hơn.
Trong các trường hợp khác, các khoản đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc lại vô tình khuếch đại những nghi ngờ về độ tin cậy và tính minh bạch của nước này. Hãy xem xét quan điểm được chia sẻ rộng rãi rằng Bắc Kinh đã triển khai ngoại giao “bẫy nợ” với các nước nghèo hơn, cố tình gài bẫy để họ mắc vào các khoản nợ không bền vững nhằm chiếm giữ các tài sản chiến lược. Dù các nghiên cứu thực nghiệm tìm thấy rất ít bằng chứng cho ý định bẫy nợ, nhưng sự phổ biến của câu chuyện này cho thấy mức độ mà các hoạt động cho vay mờ ám của Trung Quốc và đòn bẩy chính trị dường như được tích hợp vào mô hình tài chính của họ đã dẫn đến sự bất an toàn cầu.
Những lo ngại quốc tế về tình trạng dư thừa năng lực công nghiệp của Trung Quốc cũng tuân theo một mô hình tương tự. Tại nhiều thủ đô phương Tây, tồn tại một niềm tin đã bám rễ sâu rằng năng lực sản xuất dư thừa khổng lồ của Trung Quốc là kết quả của một chiến lược cố ý, nhằm bán phá giá hàng hóa giá rẻ vào thị trường của họ và phá hủy cơ sở công nghiệp của họ. Trên thực tế, dư thừa năng lực phần lớn là hệ quả không mong muốn của mô hình tăng trưởng kinh tế lâu đời ở Trung Quốc. Tuy nhiên, Bắc Kinh không sẵn lòng đối mặt với vấn đề này vì quyết tâm theo đuổi vị trí dẫn đầu ngành công nghiệp và những lợi ích cố hữu của các chính quyền địa phương, các doanh nghiệp nhà nước, và các ngân hàng do nhà nước kiểm soát. Kết quả là, cáo buộc này vẫn tồn tại, củng cố những nghi ngờ rộng hơn về ý định của nước này.

Các lý thuyết phương Tây về sự tăng trưởng đình trệ của Trung Quốc đã cung cấp thêm một lý do nữa để nghi ngờ sự tín nhiệm của nước này. Theo luận điểm “đỉnh cao Trung Quốc” (peak China), Bắc Kinh phải đối mặt với sự suy giảm kinh tế dài hạn nghiêm trọng do các vấn đề cơ cấu ngày càng tăng và không thể đảo ngược. Theo quan điểm này, sự chênh lệch giữa thái độ lạc quan chính thức của Trung Quốc và tình trạng bất ổn có thể quan sát được trong nền kinh tế Trung Quốc đặt ra câu hỏi không chỉ về độ tin cậy của dữ liệu từ Trung Quốc, mà còn về khả năng thể hiện sức mạnh của Trung Quốc trên trường thế giới. Một số nhà quan sát Trung Quốc suy đoán rằng các áp lực kinh tế tích tụ cuối cùng có thể khiến Bắc Kinh từ bỏ trỗi dậy hòa bình, lựa chọn hành động hung hăng hoặc cưỡng ép để bảo đảm lợi ích của mình khi còn có thể.
Sự mở rộng quyền kiểm soát của Trung Quốc đối với các cảng biển và cơ sở hạ tầng quan trọng của nước ngoài đã làm tăng thêm những nghi ngờ này. Các thực thể liên kết với nhà nước Trung Quốc hiện nắm giữ cổ phần trong hơn 100 dự án cảng biển nước ngoài trên toàn thế giới, hơn 70% trong số đó có khả năng quân sự cũng như dân sự tiềm tàng. Dù bằng chứng về quân sự hóa vẫn còn hạn chế, các nhà chiến lược quốc phòng phương Tây cảnh báo rằng các cơ sở lưỡng dụng này có thể phát triển thành một mạng lưới toàn cầu cho hải quân Trung Quốc. Một lần nữa, những nhận thức tiêu cực đã được thúc đẩy bởi sự thiếu minh bạch của Bắc Kinh, cũng như xu hướng không hữu ích trong việc làm mờ ranh giới giữa các tác nhân nhà nước và thương mại. Đúng là nỗi sợ có thể bị thổi phồng, nhưng chúng vẫn đủ hợp lý để đặt câu hỏi về các khoản đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc trên cơ sở an ninh quốc gia. Theo nghĩa này, sự thâm hụt tín nhiệm của Bắc Kinh là mang tính tích lũy và phần lớn là do tự mình gây ra.
Dĩ nhiên, xuyên suốt lịch sử, các cường quốc đang trỗi dậy vẫn luôn gây ra nghi ngờ về động cơ của họ. Hồi những năm 1980, Nhật Bản đối mặt với cáo buộc “đế quốc viện trợ,” và thặng dư thương mại ngày càng tăng, các thương vụ mua bán tài sản quan trọng của Mỹ, cùng với năng lực công nghệ và sản xuất mạnh mẽ đã làm dấy lên lo ngại rằng nước này muốn đe dọa sự thống trị của Mỹ, kích động các biện pháp bảo hộ. Tuy nhiên, tốc độ và quy mô sự trỗi dậy của Trung Quốc đặt ra cho họ một vấn đề về sự tín nhiệm lớn hơn nhiều so với những cường quốc tiền nhiệm. Sự thiếu minh bạch, quá trình hoạch định chính sách phân mảnh, và sự hợp nhất liên tục giữa các động cơ nhà nước, thương mại, và chiến lược của Bắc Kinh do đó đã tạo ra một vòng luẩn quẩn. Trung Quốc càng khẳng định vai trò lãnh đạo, hành động của nước này càng mời gọi sự hoài nghi – khiến họ mạnh về năng lực và sức mạnh tài chính, nhưng lại thiếu chắc chắn về đặc điểm và yếu kém về mặt tín nhiệm.
BÀI KIỂM TRA SỨC BỀN
Không nên đánh giá thấp Trung Quốc. Sau 13 năm dưới thời Tập, nước này đã củng cố sức mạnh và chuẩn bị cho một cuộc cạnh tranh giành quyền lực toàn cầu có thể kéo dài nhiều thập kỷ. Họ cũng có những thất bại, đáng chú ý nhất là trong đại dịch COVID-19, khi các lệnh phong tỏa hà khắc của Đảng Cộng sản làm trầm trọng thêm các vấn đề kinh tế cơ cấu, làm xói mòn niềm tin của xã hội Trung Quốc vào sự thịnh vượng ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, nước này vẫn duy trì quỹ đạo tổng thể của mình: tích lũy dần dần sức mạnh kinh tế kết hợp với sự khẳng định ngày càng tăng về tự chủ chiến lược. Điều đó đã giúp Trung Quốc rất nhiều trong cuộc thương chiến với Mỹ. Không có chính phủ nào khác từng ăn miếng trả miếng với Washington về thuế quan và hạn chế xuất khẩu mà vẫn bình an vô sự. Lần đầu tiên kể từ cuộc cạnh tranh với Liên Xô, Mỹ phải đối mặt với một đối thủ ngang hàng không chỉ đủ khả năng thách thức sức mạnh của họ, mà còn buộc họ phải thỏa hiệp.
Khi được đánh giá bởi cùng bốn chữ C, Mỹ không còn có thể dựa vào các lợi thế truyền thống của mình. Sau Thế chiến II, năng lực của Mỹ là không gì sánh được; sức mạnh công nghiệp áp đảo, tiềm lực tài chính và thành tựu khoa học của họ đã đặt ra tiêu chuẩn cho sự xuất sắc trong gần như mọi lĩnh vực. Trong nhiều thập kỷ, Mỹ cũng đã dẫn đầu thế giới về đặc điểm và sự tín nhiệm, xuất khẩu các giá trị, sự thịnh vượng, và chiếc ô an ninh của mình tới hàng chục quốc gia, trong khi bảo vệ hệ thống thị trường toàn cầu dựa trên đồng đô la Mỹ và pháp quyền mà họ phần lớn đã gầy dựng nên. Nhưng những thế mạnh này đã dần phai nhạt, và cùng với đó là cảm giác rằng sự ưu việt của Mỹ là lẽ đương nhiên.
Lần cuối cùng Washington đối mặt với một siêu cường đang trỗi dậy, vào buổi bình minh của Chiến tranh Lạnh, họ có thể dựa vào một liên minh các đồng minh đáng tin cậy. Điều đó ngày nay không còn đúng nữa. Kết hợp với sự liều lĩnh về tài khóa và việc vũ khí hóa chính sách kinh tế mà Mỹ đã thể hiện trong những năm gần đây, thái độ coi thường các liên minh và lập trường thương mại tối đa của chính quyền Trump nhiệm kỳ hai đã có tác động thực sự đến nhận thức quốc tế. Tháng 10/2025, Canada chính thức công bố ý định tăng gấp đôi xuất khẩu sang các quốc gia khác ngoài Mỹ – một kiểu tiếp cận “giảm thiểu rủi ro” từng chỉ dành riêng cho Trung Quốc. Bắc Kinh đã nhận ra những vết rạn nứt này và đang nỗ lực một cách có hệ thống để làm chúng thêm trầm trọng .
Mặt khác, Trung Quốc cũng phải đối mặt với những hạn chế dai dẳng của riêng mình. Chính vì họ có sức mạnh to lớn để chuyển đổi các ngành công nghiệp và thị trường, nên năng lực và nguồn vốn vô song của nước này đã trở thành những gánh nặng. Giữa bối cảnh thiếu vắng một tầm nhìn tích cực mạnh mẽ về lãnh đạo toàn cầu, họ vẫn tiếp tục thiếu hụt cả về đặc điểm và sự tín nhiệm, đặt ra những câu hỏi về ý định lớn hơn của họ và các điều kiện cho sự trỗi dậy của họ. Và các vấn đề trong nước, bao gồm tiêu dùng yếu và thay đổi nhân khẩu học làm chậm tăng trưởng, đặt ra những thách thức đáng kể của riêng chúng. Ngay cả khi Bắc Kinh có thể giảm nhẹ những vấn đề này, vị thế đương nhiệm của Mỹ trong trật tự thế giới và các nguồn tài nguyên thiên nhiên đáng ghen tị của họ vẫn có thể trở thành những thành lũy cấu trúc mà Trung Quốc không thể vượt qua.
Vì lẽ đó, kết quả tốt nhất có thể xảy ra sẽ là một cuộc đối đầu được ổn định hóa – giới hạn trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, và ngoại giao, và được cách ly cẩn thận khỏi leo thang quân sự – trong đó không bên nào có thể đạt được chiến thắng quyết định. Trung Quốc đã kết luận rằng họ đang ở trong một cuộc cạnh tranh kéo dài với Mỹ. Nếu Washington không muốn làm suy yếu vị thế của mình hơn nữa, họ phải gạt bỏ các chiến thuật ngắn hạn và bước vào cuộc chơi dài hạn. Nhưng họ cũng phải nhận ra cuộc cạnh tranh này thực sự là về cái gì. Trái ngược với giả định của nhiều nhà hoạch định chính sách Mỹ, giới lãnh đạo Trung Quốc không tìm cách lật đổ Mỹ hoặc thay thế một hệ thống toàn cầu mà từ đó Trung Quốc đã hưởng lợi rất nhiều. Nhưng họ đang tìm cách chấm dứt chiến lược kiềm chế của Mỹ, và đạt được quyền phủ quyết trên thực tế đối với các hành động đơn phương của Mỹ, chẳng hạn như các lệnh trừng phạt. Bằng cách gia tăng các hành động chống lại Trung Quốc, chính quyền Trump đã vô tình củng cố quyết tâm của Bắc Kinh trong việc hoàn thiện vị thế siêu cường của mình.
Đối với Mỹ, thành công trong cuộc cạnh tranh này khó có thể nằm ở các hành động trừng phạt chống lại Bắc Kinh. Thay vào đó, Washington phải củng cố sự tín nhiệm truyền thống của mình trên thế giới và sử dụng nó để hướng Trung Quốc đi theo một con đường ít thù địch hơn, đặt ra cho Bắc Kinh những tình thế lưỡng nan thay vì tối hậu thư, và tìm cách định hình kết quả theo thời gian thay vì ra lệnh ngay lập tức. Ngược lại, về phía Trung Quốc, thành công sẽ đòi hỏi việc chống lại áp lực của Mỹ và duy trì quỹ đạo hiện tại của mình đến điểm mà sự trỗi dậy của họ trở nên quá tốn kém để Mỹ cố gắng kiềm chế. Và nó cũng đòi hỏi việc vượt qua sự hoài nghi của quốc tế về các mục tiêu lớn hơn của Bắc Kinh. Nhưng xét đến những điểm mạnh và điểm yếu không tương xứng của họ, và sự thâm hụt lòng tin ngày càng được chia sẻ từ phần còn lại của thế giới, cả hai bên có thể sẽ thấy rằng bất kỳ chiến thắng lớn nào cũng khó mà đạt được. Cuộc cạnh tranh này sẽ không phụ thuộc vào những khoảnh khắc then chốt mà vào bài kiểm tra chậm rãi về sức bền chiến lược.
Zongyuan Zoe Liu là nghiên cứu viên cấp cao về Nghiên cứu Trung Quốc tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại và là học giả nghiên cứu cấp cao tại Viện Chính trị Toàn cầu thuộc Trường Các vấn đề Quốc tế và Công chúng của Đại học Columbia. Bà là tác giả cuốn sách “Sovereign Funds: How the Communist Party of China Finances Its Global Ambitions.”
