Một số phán quyết pháp lý về tranh chấp chủ quyền biển đảo

Print Friendly, PDF & Email

9e637066-cf71

Tác giả: TS. Nguyễn Thanh Minh

Mở đầu

Giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo bằng biện pháp pháp luật đã xuất hiện từ lâu gắn liền với những phán quyết của Trọng tài quốc tế, Tòa án thường trực Công lý quốc tế và Tòa án Công lý quốc tế. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trong đó có tranh chấp chủ quyền biển đảo đã xuất hiện ở nhiều khu vực trên phạm vi toàn thế giới. Nguyên nhân của tranh chấp chủ quyền biển đảo là do quan điểm chủ quyền của các quốc gia khác xa nhau, đồng thời do tham vọng địa chiến lược, địa quân sự, địa chính trị và địa kinh tế của một số quốc gia. Có những vụ việc đã được các bên tham gia tranh chấp đệ trình lên các cơ quan tài phán quốc tế thụ lý và phân xử một cách công bằng. Giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trong đó có tranh chấp chủ quyền biển đảo bằng biện pháp pháp luật là phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Đôi khi những phán quyết của các thẩm phán đã trở thành những án lệ kinh điển trong lịch sử giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ bằng biện pháp pháp luật mà các thế hệ sau không thể không viện dẫn để phân xử tranh chấp.

Giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo trên thế giới nói chung và khu vực Biển Đông nói riêng bằng biện pháp pháp luật trong bối cảnh hiện nay đã trở thành nhu cầu cấp thiết khi mà các quốc gia hữu quan đang có những bất đồng, mâu thuẫn và quan điểm trái ngược nhau về chủ quyền đổi với một số quần đảo và đảo hay quyền tài phán đối với các vùng biển trong khu vực Biển Đông. Từ thực tiễn của thế giới và khu vực cho thấy, mọi sự tranh chấp chủ quyền biển đảo nếu không được giải quyết bằng biện pháp pháp luật sẽ khó đem lại sự bình yên cho khu vực đó. Chính vì vậy, bài viết này nhằm hệ thống lại những phán quyết của các thẩm phán của các cơ quan tài phán quốc tế về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo trên thế giới, qua đó đúc rút những bài học kinh nghiệm về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo và đưa ra một số gợi ý chính sách.

  1. Phán quyết của Thẩm phán đối với vụ án tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan

Khái quát chung về đảo Palmas:

Đảo Palmas là một hòn đảo năm giữa Indonesia[1] và Philippines[2], và xét về khoảng cách địa lý thì nằm gần Philippines hơn Indonesia. Năm 1989, Tây Ban Nha ký Hiệp định nhượng lại Philippines cho Hoa Kỳ, bao gồm cả đảo Palmas. Năm 1906, Hà Lan (lúc đó là quốc gia thực dân cai trị Indonesia) đã khẳng định chủ quyền đối với đảo Palmas. Cuối cùng, Hoa Kỳ nhất trí đồng ý giải quyết tranh chấp tại Tòa trọng tài năm 1928, Thẩm phán vụ này là Max Huber, người Thụy Sĩ.

Cơ sở pháp lý và lập luận của hai bên:

Lập luận của Hoa Kỳ: Hoa Kỳ đòi chủ quyền bằng lập luận về quyền khám phá và sở hữu liền kề. Lập luận của Hà Lan: Hà Lan là quốc gia nắm giữ quyền sở hữu thực tế trong hòa bình, kéo dài liên tục suốt hơn hai thế kỷ mà không gặp phải sự phản đối nào của Nhà nước Tây Ban Nha, đồng thời Hà Lan đã ký hàng loạt các hiệp định với nhà cầm quyền địa phương, từ đó lập nên thuộc địa Hà Lan trên đảo Palmas, kèm theo các hoạt động kinh tế, nghĩa vụ khi có chiến tranh, đối ngoại v.v…

Phán quyết của thẩm phán:

Thẩm phán Max Huber: Tây Ban Nha không thể chuyển nhượng hợp pháp cái mà họ không sở hữu. Bởi quả nhiên họ nắm giữ sở hữu ban đầu khi khám phá đảo, nhưng sau đó không thực thi quyền lực thực sự với đảo nên đòi hỏi của Hoa Kỳ là yếu ớt, mờ nhạt và không được chấp nhận. Ngược lại các hoạt động của Hà Lan đối với đảo Palmas là đặc trưng quyền lực của nhà nước, nó diễn ra trong hòa bình bởi không có xung đột nào giữa các quốc gia, nó liên tục trong suốt thời gian dài, mặc dù cũng có những khoảng trống nhất định cụ thể từ năm 1726 đến năm 1825. Như vậy, Palmas là lãnh thổ thuộc sở hữu của Hà Lan[3].

  1. Phán quyết của Tòa đối với vụ án tranh chấp Đông Greenland giữa Na Uy và Đan Mạch giai đoạn 1931 – 1933

Khái quát chung về Greenland:

Greenland là lãnh thổ cực bắc trái đất, rộng khoảng 2,166 triệu km2, 81% diện tích có băng phủ không thể sinh sống. Năm 1931, Na Uy chiếm và tuyên bố chủ quyền phía Đông Greenland không có người ở vì cho rằng đó là đất vô chủ chưa thuộc sở hữu của bất kỳ quốc gia nào. Đan Mạch đòi chủ quyền với toàn bộ Greenland trong khi chỉ chiếm hữu thực sự một phần diện tích của đảo. Năm 1933, hai nước đồng ý giải quyết tranh chấp chủ quyền tại Pháp viện thường trực quốc tế.

Cơ sở pháp lý và lập luận của hai bên:

Lập luận của Na Uy: Na Uy cho rằng họ đã chiếm Đông Greenland là vùng đất vô chủ chưa thuộc quyền sở hữu của bất kỳ quốc gia nào. Lập luận của Đan Mạch: Đan Mạch đã chứng minh chủ quyền đối với toàn bộ đảo không bằng hành vi chiếm hữu cụ thể nào mà bằng một loạt các sắc lệnh, luật thực thi pháp luật, hành chính trải dài khoảng 1.000 năm trước, đặt Greenland dưới sự điều hành của Đan Mạch, quy định lưu thông hàng hải quanh Greenland, quy định việc săn bắt và đánh cá, quy định việc cấp giấy phép cho các quốc gia và người đến thăm phía Đông đảo Greenland, các hoạt động thám hiểm v.v…, quá trình Đan Mạch thực hiện các hành động đó diễn ra trong hòa bình.

Phán quyết của Tòa:

Việc xác lập chủ quyền đối với vùng đất không thể sinh sống chỉ cần quốc gia có ý định chiếm hữu và thực hiện một số hoạt động mang tính quyền lực nhà nước là đủ. Tòa xác định Đan Mạch đã có ý định và thẩm quyền quốc gia đã nêu là đầy đủ để có chủ quyền với toàn bộ Greenland. Với những khu vực không thể sinh sống thì yêu cầu để duy trì chủ quyền trên lãnh thổ là ít nghiêm ngặt hơn so với các khu vực có thể qua lại và đông dân cư. Đây chính là sự thay đổi nhất định trong nội dung của chiếm hữu thật sự khi nó được vận dụng trong một điều kiện lãnh thổ mới. Như vậy, chủ quyền của đảo Greenland thuộc về Đan Mạch.

  1. Phán quyết của Tòa đối với vụ án tranh chấp chủ quyền đảo Clipperton giữa Pháp và Mexico năm 1931

Khái quát chung về Clipperton:

Nằm ở phía Nam Mexico và phía Tây của Guatemala, hòn đảo san hô này đã từng được nước Pháp sử dụng để khai thác phân chim. Trong cuộc nội chiến Mexico vào năm 1914, cư dân của hòn đảo bị cắt đứt nguồn cung cấp thiết yếu và sau Thế chiến II, nó hoàn toàn bị bỏ rơi. Hiện nay, hòn đảo này không có nguồn nước sạch và nơi sinh sống của nhiều loài bò sát, rắn độc và nhiều loài chim quý. Clipperton rộng khoảng 9 km2. Pháp và Mexico nhất trí giải quyết tranh chấp năm 1909, đến năm 1931, trọng tài mới đưa ra phán quyết của vụ án.

Cơ sở pháp lý và lập luận của hai bên:

Lập luận của Mexico: Mexico cho rằng, Tây Ban Nha đã phát hiện ra đảo trước Pháp rất lâu và để lại quyền thừa kế cho Mexico. Lập luận của Pháp: Pháp cho rằng, Pháp là quốc gia phát hiện ra đảo Clipperton năm 1858 và tuyên bố chủ quyền mà không có quốc gia nào phản đối. Nước Pháp đã tiến hành các hoạt động như khai thác phân chim, cho các tàu chiến đến neo đậu nhằm khẳng định chủ quyền.

Phán quyết của Tòa:

Đối với lãnh thổ không thể sinh sống được thì không cần thiết có sự hiện diện thường xuyên các hoạt động mang tính quyền lực nhà nước tại đó, tại thời điểm quốc gia chiếm hữu xác lập chủ quyền mà không có tranh chấp thì việc xác lập chủ quyền coi như đã hoàn thành. Giống như đảo Greenland, đối với lãnh không thể sinh sống như Clipperton thì những đòi hỏi khắt khe của nguyên tắc chiếm hữu thật sự hầu như không được vận dụng, ngoại trừ yếu tố hòa bình, hoặc là nó được vận dụng ở mức tối thiểu nhất – không đòi hỏi việc thực hiện quyền lực nhà nước liên tục, thường xuyên trên lãnh thổ chiếm hữu. Như vậy, chủ quyền của đảo Clipperton thuộc về nước Pháp, đây là lãnh thổ hải ngoại của nước Pháp.

  1. Phán quyết của Tòa đối với vụ án tranh chấp chủ quyền nhóm đảo Minquies và Ecrehos giữa Anh và Pháp giai đoạn 1951 – 1953

Khái quát chung về chung về Minquies và Ecrehos là hai nhóm đảo:

Minquies và Ecrehos là hai nhóm đảo nhỏ và đảo đá nằm giữa quẩn đảo Channels thuộc Jersey của Anh và bờ biển Pháp. Trong hai nhóm đảo Minquies và Ecrehos có một số đảo có thể sinh sống, còn lại phần lớn là những đảo đá. Năm 1951, cả hai nước Anh và Pháp yêu cầu Tòa xem xét bên nào có bằng chứng chủ quyền thuyết phục hơn để có quyền sở hữu với hai nhóm đảo Minquies và Ecrehos.

Cơ sở pháp lý và lập luận của hai bên:

Lập luận của Pháp: Nước Pháp có Hiệp ước nghề cá xác định vùng hợp tác bao gồm hai nhóm đảo, ngư dân ở Jersey của Anh bị cấm đánh bắt và hạn chế nhập cảnh vào Ecrehos do hai Chính phủ trao đổi ngoại giao, một phần Ecrehos bị đánh dấu trên hải đồ là ở ngoài vùng nước Jersey và bị coi là đất vô chủ, Pháp đã gửi văn bản tới Anh khẳng định chủ quyền ở Ecrehos. Minquies là vùng nước phụ cận thuộc đảo Chausey của Pháp, các nhà cầm quyền Pháp trao đổi thư từ liên quan tới đơn xin sử dụng đất của công dân Pháp ở Minquies. Đồng thời Pháp đảm nhận về điện năng và phao cứu sinh cho Minquies mà Anh không phản đối. Một ngôi nhà được dựng lên trên một đảo nhỏ ở Minquies với sự trợ giúp của Pháp, đồng thời Chính phủ Pháp cũng tới thăm Minquies.

Lập luận của Anh: Nước Anh đưa ra bằng chứng là Tòa án Jersey đã xét xử tội phạm ở Ecrehos trong vòng một thế kỷ từ năm 1826 đến năm 1921. Chính quyền Jersey đã thu thuế và cho đăng ký hợp đồng nhà đất, đăng ký tàu thuyền, lập trạm hải quan ở Ecrehos, các thủ tục hợp đồng và thuê bất động sản ở Minquies cũng được đăng ký và thanh toán ở Jersey. Đồng thời Anh có sắc lệnh của kho bạc tác động đến Ecrehos và sự viếng thăm của các quan chức Anh tới Ecrehos.

Phán quyết của Tòa:

Tòa án nhận thấy hoạt động trao đổi thư từ, đặt phao cứu sinh hay một số hành vi tương tự không được coi là Pháp đã thực thi quyền lực nhà nước đầy đủ với các đảo. Trong khi Anh đã thực thi các chức năng nhà nước về tư pháp, hành chính để quản lý các đảo trong thời gian dài, nó chứng tỏ Anh đã thực thi quyền lực nhà nước đối với các đảo một cách thực sự và đầy đủ hơn Pháp, vậy nên, chủ quyền hai nhóm đảo thuộc Anh.

  1. Phán quyết của Tòa đối với vụ án tranh chấp biên giới trên bộ và trên biển giữa Cameroon và Nigeria năm 2002

Khái quát chung về chung về biên giới trên biển và trên bộ vùng hồ Chad: vùng hồ Chad đã được phân định từ thời thực dân giữa 3 nước Anh, Pháp và Đức. Nhưng hai quốc gia Cameroon và Nigeria đã bất đồng khi áp dụng đường biên giới đó. Năm 1994, Cameroon đệ đơn đến Tòa án Công lý quốc tế, khởi đầu cho việc giải quyết tranh chấp chủ quyền vùng biên giới trên bộ và trên biển giữa hai quốc gia.

Cơ sở pháp lý và lập luận của hai bên:

Lập luận của Cameroon: Cameroon khẳng định chủ quyền vùng hồ Chad do kế thừa từ thời thực dân. Cameroon đã thực thi chủ quyền bằng các cuộc viếng thăm của quan chức địa phương, bầu cử, duy trì pháp luật và an ninh, họp mặt các trưởng làng, thu các loại thuế. Từ năm 1987, Cameroon đã phản đối Nigeria dùng quân đội tiếp quản trạm huấn luyện nghề cá và tìm cách quản lý hành chính khu vực tranh chấp. Đồng thời phản đối Nigeria vi phạm nguyên tắc estoppel vì trước kia đã công nhận đường biên giới từ thời thực dân và giao phó cho Ủy ban cắm mốc, coi hành vi của Nigeria là xâm chiếm, vi phạm luật pháp quốc tế.

Lập luận của Nigeria: Trên thực tế Nigeria chỉ công nhận một số nội dung phân định ranh giới từ thời thực dân, không công nhận sự khẳng định chủ quyền bằng chiếm hữu thật sự thông qua hoạt động hỗ trợ y tế – giáo dục, quản lý, giám sát, thu thuế các làng ở vùng hồ Chad mà không có phản đối của Cameroon.

Phán quyết của Tòa:

Đường biên giới thời thực dân vẫn giữ nguyên hiệu lực. Cameroon đã nắm giữ chủ quyền trước khi Nigeria thực thi chủ quyền, mặc dù họ không có hoạt động thường xuyên nhưng luôn tìm cách thực thi chủ quyền, cho dù có rất ít thành công, họ đã rõ ràng phản đối hành vi của Nigeria. Nigeria đã thua kiện cho dù đã thực thi quyền lực nhà nước trên lãnh thổ tranh chấp bởi nó không đáp ứng tiêu chí hòa bình của chiếm hữu thật sự.

  1. Phán quyết của tòa đối với Vụ tranh chấp đảo Pulau Ligitan và Pulau Sipadan giữa Malaysia và Indonesianăm 2002

Pulau Ligitan và Pulau Sipadan là hai đảo nhỏ không có dân cư sinh sống, giá trị kinh tế không lớn, tranh chấp từ năm 1969 do cả hai quốc gia đều viện dẫn quyền sở hữu từ thời phong kiến (hồi thế kỷ XVI), điều ước quốc tế thời thuộc địa, nhưng không được Tòa công nhận nên hai nước đã viện dẫn chiếm hữu thật sự trước năm 1969 để khẳng định chủ quyền.

Lập luận của các bên: Lập luận của Indonesia: Indonesia viện dẫn báo cáo của tàu Hà Lan khẳng định hai đảo thuộc quyền sở hữu của Hà Lan, các cuộc điều tra thủy văn xung quanh hai đảo, cuộc viếng thăm của hải quân, ngư dân có truyền thống đánh bắt xung quanh hai đảo. Lập luận của Malaysia: Malaysia cho rằng thời thuộc địa, Anh đã thu thập, quản lý, kiểm soát trứng rùa trên đảo từ năm 1914, có pháp lệnh bảo tồn rùa, giải quyết tranh chấp liên quan đến thu thập trứng rùa, cấp phép cho tàu đánh cá xung quanh đảo, xây hải đăng và trợ giúp đường biển cho hai đảo mà Indonesia không phản đối; sau thời thuộc địa, Malaysia đã luôn khẳng định chủ quyền trong quá trình đàm phán với Indonesia về thềm lục địa trong khi Indonesia không quan tâm đòi chủ quyền hai đảo, Malaysia cũng đã khai thác du lịch, giữ an ninh, môi trường cho Sipidan đến hiện tại, năm 1997, hai đảo là khu bảo tồn của Malaysia.

Phán quyết của Tòa: Indonesia không có hoạt động lập pháp đối với đảo, đạo luật năm 1960 và bản đồ kèm theo không đề cập đến hai đảo, chuyến đi của tàu Hà Lan được xác định là hoạt động chung của Hà Lan và Anh để chống cướp biển, việc đánh bắt cá chỉ là hoạt động tư nhân vì không có quy định của Chính phủ, Indonesia đã không thể hiện có ý định thiết lập chủ quyền. Malaysia đã điều tiết, kiểm soát trứng rùa, thực hiện kế hoạch dự trữ gia cầm cho quốc gia là hoạt động thẩm quyền hành chính nhà nước trên các đảo. Bên cạnh đó là sự im lặng của Indonesia. Tòa cho rằng Malaysia kế thừa đảo từ Anh và đã tiến hành các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, diễn ra trong thời gian dài, thể hiện ý định thực thi quyền lực nhà nước đối với hai đảo. Malaysia thắng kiện.

  1. Vụ tranh chấp đảo Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge giữa Malaysia và Singapore năm 2008

Tranh chấp này tương tự như tranh chấp đảo Ligitan và Sipadan, nhưng điểm khác biệt là Tòa xác định quyền sở hữu nguyên gốc các đảo thuộc về Malaysia, nhưng Tòa lại trao chủ quyền cho Singapore bởi Singapore đã có một số hoạt động chiếm hữu thật sự như: Thám hiểm xác tàu đắm trong lãnh hải của đảo, thăm dò các vùng nước xung quanh đảo, có kế hoạch khai hoang các khu vực xung quanh đảo, tất cả các hoạt động này diễn ra trong sự im lặng của Nhà nước phong kiến Malaysia và hiện tại, thậm chí sau tháng 6/2003, thời điểm thỏa thuận đưa vụ việc ra giải quyết tại Tòa có hiệu lực, thì Malaysia mới phản đối những việc Singapore đã làm từ những năm 1980.

Có thể thấy rằng, nguyên tắc chiếm hữu thật sự luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trải dài từ cuối thế kỷ 19 cho đến ngày nay. Nó được cơ quan tài phán quốc tế vận dụng một cách thật sự linh hoạt để đưa ra phán quyết chủ quyền với những lãnh thổ có điều kiện địa lý và tự nhiên khác nhau. Nguyên tắc chiếm hữu thật sự cũng hoạt động trong mối quan hệ tương thích với những quy định khác của luật quốc tế hiện đại để xác định và bảo vệ chủ quyền quốc gia, như: Nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia, cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, quy chế của các vùng biển, đảo trong luật biển.

Kết Luận

Qua phân tich những án lệ về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo trên cho thấy: trước năm 1922, việc giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia do Trọng tài quốc tế tiến hành. Từ khoảng năm 1922 đến năm 1945 công việc này do Tòa án thường trực Công lý quốc tế đảm nhiệm, từ năm 1945 đến nay thì thuộc Tòa án Công lý quốc tế. Tính đến nay, các cơ quan tài phán này đã giải quyết khoảng 20 vụ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ. Khi giải quyết các tranh chấp đó, các trọng tài và thẩm phán đều viện dẫn tới nguyên tắc chiếm hữu thật sự để quyết định sẽ trao chủ quyền lãnh thổ cho quốc gia nào.

Nguyên tắc chiếm hữu thật sự được hình thành từ năm 1885, đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở các khu vực châu Phi giữa các nước châu Âu trong quá trình đi tìm vùng đất mới của các nước này, ghi nhận tại Định ước Berlin với hai nội dung chủ yếu: Thứ nhất, quốc gia chiếm hữu lãnh thổ phải thông báo cho các nước khác. Thứ hai, nước chiếm hữu phải có hiện diện của tổ chức chính quyền tại chỗ để thi hành pháp luật. Sau đó, Tuyên bố của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne của Thụy Sĩ năm 1888 tiếp tục khẳng định nguyên tắc chiếm hữu thật sự nhưng nhấn mạnh thêm rằng: Việc chiếm hữu phải là thực sự – thực tế chứ không phải trên danh nghĩa. Tuy nhiên, khi Thế chiến I kết thúc, Hiệp ước Saint – Germain ngày 10/9/1919 đã tuyên bố hủy bỏ Định ước Berlin với lý do trên thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa. Nhưng do tính hợp lý và khoa học của nguyên tắc chiếm hữu thực sự mà các cơ quan tài phán quốc tế vẫn viện dẫn nguyên tắc này khi giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia. Quá trình đó làm cho nguyên tắc chiếm hữu thật sự ban đầu đã có những thay đổi nhất định, nó trở lên linh hoạt và có thể vận dụng để giải quyết hầu hết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với những đặc điểm địa lý và tự nhiên hoàn toàn khác nhau.

Qua đó chỉ ra, chiếm hữu thật sự gồm ba điều kiện sau: 1. Chủ thể chiếm lãnh thổ phải là quốc gia. 2. Đối tượng chiếm hữu phải là lãnh thổ vô chủ hoặc bị bỏ rơi. 3. Hành vi chiếm hữu phải hội tụ đủ cả yếu tố vật chất và tinh thần của chủ thể chiếm hữu.

Yếu tố vật chất thể hiện rằng hành vi chiếm hữu phải diễn ra trong điều kiện hòa bình, thực sự, đầy đủ, liên tục trong thời gian dài nhất định phù hợp với điều kiện tự nhiên của lãnh thổ.

Yếu tố tinh thần thể hiện rằng quốc gia chiếm hữu phải thể hiện rõ ý định chiếm hữu lãnh thổ của mình./.

Thiếu tá, TS. Nguyễn Thanh Minh công tác tại  Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Bộ Quốc phòng.

—————–

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn Thanh Minh đồng chủ biên (2012), Quy chế pháp lý quốc tế giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông lý luận và thực tiễn, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
  2. Nguyễn Thanh Minh (2011), Quy chế pháp lý quốc tế đối với các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia ven biển từ lý luận đến thực tiễn, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 10.
  3. Nguyễn Thanh Minh (2014), Về một số hội nghị quốc tế liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giai đoạn 1943 – 1951, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9.
  4. Nguyễn Thanh Minh (2014), Một số vấn đề về quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Tạp chí Khoa học Chính trị Quân sự, số 5.
  5. Nguyễn Thanh Minh (2014), Quan điểm xây dựng chính sách biển cận đại và hiện đại, Tạp chí Kinh tế và Chính trị Thế giới, số 12.
  6. Nguyễn Thanh Minh (2015), Các quốc gia trong khu vực Biển Đông cần tuân thủ nghiêm Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển quốc tế năm 1982, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3.
  7. Tuyển tập các phán quyết Trọng tài quốc tế, Tập XXVIII, tr. 121-123, tập XI, tr. 21-23, Tập II, tr. 1110-1111.
  8. Tuyển tập các phán quyết của Pháp viện thường trực quốc tế, serie A/B, N° 53, tr.46, 63-64.
  9. Tuyển tập các phán quyết của Toà công lý quốc tế,1953, tr. 47-73; 1975, tr. 39, Para 79; 2002, tr. 303-458, Para 48,53,62-70, tr. 625-686; 2008, tr.1-81.

———————-

[1] Indonesia trước đây là thuộc địa của Hà Lan.

[2] Philippines trước đây là thuộc địa của Tây Ban Nha.

[3] Reports of International Arbitral Awards Recueil Dessentences Arbitrales. Island of Palmas case (Netherlands, USA), 4 April 1928, Volume II pp. 829 – 871.

[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]