Tác giả: David Brown | Biên dịch: Lê Văn Sang
Mùa mưa bão bắt mọi thứ tuân theo đúng với nhịp điệu hàng năm của nó, và tháng vừa rồi, Trung Quốc đã phải kéo giàn khoan nước sâu của họ ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế mà Việt Nam đã tuyên bố. Các nhà phân tích ngay lập tức bắt đầu tranh luận ai “thắng” ai “thua”. Nhưng thực ra, ý nghĩa của mười tuần thử thách ý chí chủ yếu là các bài học rút ra bởi Bắc Kinh, Hà Nội và chính phủ các quốc gia cảm thấy bất an bởi tham vọng “chủ quyền không thể thay đổi được” của Trung Quốc.
Mẫu hình xâm lấn của Trung Quốc đã trở nên rõ ràng từ khi nước này trình lên Liên Hiệp Quốc năm 2009 một bản yêu sách rất rộng dựa vào một bản đồ không rõ ràng. Bắc Kinh đã dương oai diễu võ thể hiện sức mạnh hàng hải của minh kể từ đó, trục lợi từ sự bối rối và hoài nghi kéo dài tại nhiều thủ đô khác nhau, trong đó có Washington.
Không phải Trung Quốc đã trở nên mưu chước hơn mà chỉ là có quá nhiều nước tin vào ý tưởng rằng Trung Quốc, bất chấp những khó khăn đang gia tăng, sẽ trở thành một siêu cường trỗi dậy một cách hòa bình. Họ đã mất nhiều thời gian mới nhận ra sự thật.
Cuộc đối đầu ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam đã thu hút sự chú ý của giới truyền thông quốc tế, nhưng cũng trong năm nay, các bộ phận của Lực lượng Tuần duyên Trung Quốc cũng đã quấy nhiễu các căn cứ tiền tiêu của Philippines, một đội tàu hải quân đã đi thăm bãi ngầm James để treo cờ Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia,và lính công binh hải quân đã đổ nhiều công sức biến các rặng san hô và bãi đá thành các cơ sở hạ tầng phục vụ việc thống trị khu vực.
Vì nhiều lý do khó hiểu đối với các nhà chiến lược năng lượng phương Tây nhưng rõ ràng là hợp lòng các công dân Trung Quốc, Bắc Kinh đã kích động sự giận dữ đối với sự tăng trưởng của ngành khai thác dầu khí của các nước láng giềng. Tờ báo dân túy Hoàn cầu thời báo đã tường thuật: “Hàng năm Việt Nam, Philippines và Malaysia đã khai thác khoảng 20 triệu tấn dầu và khí từ biển Đông. Đây là sự tổn thất dầu và khí của Trung Quốc vào tay nước ngoài”. Ước lượng của Trung Quốc về số hydrocarbon đang chờ các giàn khoan nước này đến khai thác thường là cao gấp ba lần ước lượng được Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ công bố.
Mùa hè này, không có gì bất ngờ khi Trung Quốc đã nhắm tới một phần của bể Phú Khánh nằm cách bờ biển miền trung Việt Nam 193 km. Đó là một trong những khu vực ít được thăm dò đã được Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ (USGS) xác định là có thể chứa các mỏ hydrocarbon đáng kể. Trong nhiều năm, ExxonMobil đã thăm dò các lô gần bờ biển hơn trong một liên doanh với PetroVietnam, và rõ ràng đã đạt được một số thành công. Chính phủ Việt Nam cũng đã cấp phép nhượng quyền khai thác dầu trong khu vực này cho công ty Murphy Oil, Công ty Dầu và Khí tự nhiên Ấn Độ (ONGC) và công ty Gazprom của Nga.
Nếu giàn khoan này của Trung Quốc tìm được bất cứ dấu vết nào của hydrocarbon thì chẳng có gì hơn là nhờ may mắn. Trừ khi được chỉ đạo về mặt chính trị, các công ty dầu không bao giờ khoan cho đến khi nào tập hợp được lượng lớn các dữ liệu địa chấn và mô hình địa chất chứng tỏ có trữ lượng đáng kể, đáng để bù đắp chi phí khoảng 100 triệu đô la mỗi giếng dầu.
Khu vực hứa hẹn nhất được USGS xác nhận về hydrocarbon dưới đáy biển là Bãi Cỏ rong (Reed Bank). Đây là một núi ngầm dưới biển rộng khoảng 80×112 dặm ngoài khơi đảo Palawan trong vùng đặc quyền kinh tế Philippines, nơi công ty Philex Petroleum đã đạt được sự chấp nhận của Manila để bắt đầu khoan trong năm 2016. Điều đó có nghĩa là các tàu khảo sát địa chấn đã ký hợp đồng với Philex sẽ hoạt động bận rộn trên khu vực này trong năm 2015, và có thể sẽ là một mục tiêu hấp dẫn khó cưỡng cho sự can thiệp của Trung Quốc.
Vì không phải là một vị trí nước sâu, bãi Cỏ rong sẽ thích hợp để các giàn khoan tự nâng của Trung Quốc triển khai như là cái cớ để phô trương lực lượng. Một sự đối đầu tương tự như với Việt Nam mùa hè này diễn ra trên vùng biển Philippines là điều dễ xảy ra.
Đó là một trong nhiều kịch bản mà có lẽ các nhà chiến thuật Trung Quốc đang cân nhắc. Nếu họ thấy được nước nào khác lơ là không chuẩn bị, Bắc Kinh sẽ tạo dựng một mắt xích nữa trong chuỗi sự kiện được trù tính sẽ tạo ra chủ quyền trên thực tế (de facto) cho Trung Quốc trên biển Đông. Nhưng chuỗi sự kiện này có thể bị đứt gãy nếu Mỹ dẫn đầu một phản ứng phối hợp mang tính phủ đầu để chống lại sự phô trương lực lượng của Trung Quốc.
Trung Quốc đã dựa vào hạm đội tàu bán quân sự đang phát triển nhanh chóng để hậu thuẫn các yêu sách của mình trên biển Đông. Trung Quốc và Mỹ dường như ngầm thỏa thuận là không dùng tàu chiến đối đầu nhau, một tình thế mà cho đến nay đã đem lại lợi thế cho Trung Quốc. Một sự trả đũa hiệu quả sẽ thúc đẩy được những mối quan hệ huấn luyện đã phát triển tốt đẹp của Lực lượng Tuần duyên Mỹ với cảnh sát biển của các quốc gia có quan hệ thân thiện ở Đông Nam Á.
Trong những tháng tới, Mỹ và Nhật Bản sẽ chuyển giao mấy chục chiếc xuồng ca nô và tàu tuần tra cho Việt Nam và Philippines. Bất cứ điều gì mà Trung Quốc cố gắng thực hiện trong mùa xuân hè sắp tới cũng tạo ra lý do phù hợp để tổ chức các cuộc diễn tập hợp tác đa quốc gia mở rộng trong vùng biển nằm giữa Trường Sa và Hoàng Sa. Chỉ các bộ phận Lực lượng tuần duyên/cảnh sát biển là nên tham gia. Để dễ chấp nhận với công luận, các cuộc diễn tập này có thể tập trung vào thực hành huấn luyện tìm kiếm và cứu nạn, ngăn chặn buôn lậu và cướp biển, bảo vệ chống lại sự xâm nhập của nước ngoài vào các vùng lãnh hải,vv… Mỹ và Nhật Bản nên thúc giục Úc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và Singapore cùng tham gia vào các cuộc diễn tập này.
Các bộ phận của đội tàu này nên luôn ở lại vùng biển từ tháng Ba đến tháng Bảy, sẵn sàng ngăn chặn một cuộc triển khai nữa của Trung Quốc bằng cách gây cản trở. Một sự biểu dương sức mạnh bán quân sự có phối hợp như thế sẽ chứng minh rằng các quốc gia ven biển và bạn bè của họ không còn dung dưỡng cho chiến thuật “cắt lát xúc xích” của Trung Quốc nữa.
Có một nguy cơ là sẽ xảy ra việc va đâm cố ý và việc sử dụng vòi rồng, chiến thuật mà Trung Quốc đã dùng để chống lại Việt Nam mùa hè này. Tuy nhiên, kịch bản có nhiều khả năng xảy ra hơn là các tàu Trung Quốc sẽ chọn tránh đối đầu khi hai bên có điều kiện tương đồng hay gần tương đồng. Điều này trên thực tế sẽ giúp xác lập lại các giả định chiến thuật của Trung Quốc và mở đường cho những kết quả hợp lý và tôn trọng lẫn nhau hơn trên Biển Đông.
David Brown là một nhà báo tự do và là một cựu viên chức ngoại giao Mỹ.
Bản gốc tiếng Anh: CogitAsia