Xin chào quý vị, thật vinh dự cho tôi khi được quay lại CSIS. Tôi sẽ bắt đầu bài phát biểu của mình bằng việc nêu ra bối cảnh tình hình hiện nay. Mỹ đã luôn có lợi ích ở Châu Á và lợi ích đó ngày càng lớn hơn khi các nền kinh tế của chúng ta kết nối chặt chẽ với nhau và người dân chúng ta gần gũi nhau hơn nhờ việc đi lại thuận tiện và internet.
Trong vòng bảy thập kỷ qua chúng tôi đã cùng làm việc với các nước đồng minh và đối tác để cùng nhau bảo vệ an ninh và phát triển thịnh vượng. Và đặc biệt trong vòng sáu năm rưỡi qua, chúng tôi đã đầu tư để xây dựng quan hệ hợp tác với từng nước một trong khu vực – đây chính là chính sách tái cân bằng.
Có rất nhiều sự đầu tư mà thế giới và Châu Á cần để có thể tiếp tục tăng trưởng – đầu tư vào nguồn lực con người, vào kinh doanh, vào cơ sở hạ tầng. Nhưng cũng quan trọng không kém là sự đầu tư vào “nguồn vốn hợp tác”, chính là đầu tư vào luật pháp và trật tự quốc tế bởi nó góp phần tạo thuận lợi cho quan hệ giữa các quốc gia, thúc đẩy hội nhập khu vực nhằm giúp các quốc gia quản lý các tranh chấp của mình một cách hoà bình. Chính sách của Mỹ là đầu tư một cách cân bằng vào tất cả các lĩnh vực này.
Trong bảy mươi năm qua, một hệ thống dựa trên luật lệ là nền tảng trung tâm tạo nên sự tăng trưởng trên toàn cầu nhưng thường bị đánh giá thấp. Và điều này có vẻ đúng ở bối cảnh Châu Á. Nhiều nền kinh tế đã tăng trưởng và tiếp tục tăng trưởng nhờ vào thương mại quốc tế, đặc biệt là thương mại với Mỹ.
Những thập kỷ qua, các quốc gia Châu Á đã đạt được rất nhiều thành tựu trong việc giảm đói nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo ra nhiều cơ hội cho người dân cũng như phát triển về mặt xã hội. Và họ làm được điều đó nhờ sự chăm chỉ, nhờ sự hợp tác với nhau, nhờ hợp tác với Mỹ và nhờ cùng phát triển và vận hành trong một hệ thống dựa trên luật lệ.
Mỹ đang mong muốn giúp đỡ các nước Châu Á đạt được nhiều thành tựu hơn thế nữa. Chúng tôi đang muốn đưa sự tăng trưởng kinh tế bền vững và toàn diện lên một đẳng cấp mới thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). TPP là một hiệp định của tương lai bởi nó vượt ra ngoài khuôn khổ các vấn đề thương mại và phát triển để hướng đến những tiêu chuẩn cao hơn trong việc bảo vệ môi trường và quyền lao động. TPP sẽ hỗ trợ tầng lớp doanh nhân trung lưu ngày một phát triển, năng động có cơ hội giao lưu với thế giới và làm ăn kinh doanh thông qua một mạng lưới Internet kết nối rộng mở.
Chúng tôi sẽ đưa cấu trúc an ninh khu vực lên một tầm cao mới bằng cách đầu tư vào các thể chế như Thượng đỉnh Đông Á (EAS), ASEAN bên cạnh các cam kết lâu dài của chúng tôi đối với các thể chế toàn cầu như Liên Hợp Quốc (UN). Các thể chế này sẽ giúp bảo vệ các quy tắc luật lệ và xử lý các thách thức khó khăn, giúp các quốc gia dàn xếp mâu thuẫn khi đàm phán và ngoại giao song phương không thành công, giúp các tranh chấp được giải quyết một cách hoà bình, thẳng thắn và công bằng.
Đứng sau ủng hộ các thể chế này sẽ là nhiệm vụ chính của hệ thống đồng minh, đối tác của Mỹ. Đây chính là mạng lưới giúp giữ vững hoà bình trong khu vực kể từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai. Và thông qua một loạt thoả thuận quan trọng với các đối tác an ninh chủ chốt trong vòng vài năm qua, chúng tôi đã làm mới và hiện đại hoá các quan hệ để chúng có thể tiếp tục tồn tại trong nhiều thập kỷ tới.
Chúng tôi đang đẩy mạnh việc bảo vệ môi trường thông qua việc bảo tồn đại dương, chiến đấu chống lại biến đổi khí hậu và các hệ quả của nó thông qua Sáng kiến Hạ nguồn Mekong nhằm giúp cho tăng trưởng kinh tế không ảnh hưởng đến sự bền vững của môi trường.
Khi theo đuổi các mục tiêu trên ở khu vực, chúng tôi đã làm việc rất nhiều và rất tích cực với Trung Quốc, thông qua hàng chục các cơ chế đối thoại cấp cao, các cuộc gặp giữa Tổng thống Obama với Chủ tịch và Thủ tướng Trung Quốc. Chúng tôi đã làm rất nhiều để có thể thông hiểu lẫn nhau. Chúng tôi cùng làm việc qua cơ chế Đối thoại Chiến lược và Kinh tế mà chúng tôi vừa tiến hành tháng trước tại Washington. Chúng tôi còn làm việc với nhau qua đủ loại cơ chế tham vấn cấp cao. Kết quả đạt được của các nỗ lực này là tạo dựng một nền tảng cho quan hệ Trung-Mỹ để có thể xử lý những căng thẳng, thậm chí khủng hoảng.
Trong vòng vài năm qua, tôi cho rằng sự cố gắng này đã có những đền bù xứng đáng, thể hiện qua các tiến bộ đáng kể trong nhiều lĩnh vực hợp tác như chính sách giảm thải khí carbon, chống cướp biển, chiến đấu chống dịch bệnh ebola, xây dựng một tương lai tốt hơn cho Afghanistan, vấn đề Bắc Triều Tiên, vấn đề visa và các thông lệ tạo thuận lợi cho doanh nhân.
Tuy nhiên, không may mắn là vấn đề Biển Đông lại không hề phù hợp với khung cảnh hợp tác này. Mỹ không phải là một bên yêu sách. Và tôi đã nhấn mạnh điều này ở CSIS và nhiều nơi khác. Các tranh chấp biển và lãnh thổ về bản chất không phải là một vấn đề giữa Mỹ và Trung Quốc. Tranh chấp là giữa Trung Quốc và các nước láng giềng và vấn đề chủ chốt nằm ở chỗ Trung Quốc muốn trở thành một quốc gia hay một cường quốc như thế nào. Nhưng vì nhiều lý do, các yêu sách đối lập và cách hành xử gây rối ở Biển Đông đã gây ra nhiều căng thẳng nghiêm trọng trong quan hệ Mỹ-Trung.
Như các vị đã thảo luận sáng nay, rõ ràng ở Biển Đông đã có một lịch sử các khẳng định yêu sách đối lập nhau về chủ quyền và quyền tài phán và thậm chí là xung đột vũ trang vào những năm 1974, 1988. Không có ai là thiên thần ở đây cả. Sự chiếm đóng các thực thể tranh chấp ở Biển Đông khiến cho tình hình ở đây trở thành một cuộc tranh giành khốc liệt. Nhưng các bên yêu sách vào năm 2002 đã thoả thuận dừng hành động này. Các bên yêu sách cùng với các quốc gia khác trong ASEAN đã ký kết một bản tuyên bố ứng xử (DOC) với Trung Quốc, trong đó họ cam kết “sẽ kiềm chế đối với các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng đến hoà bình ổn định, bao gồm chiếm đóng các thực thể đang không có người ở”. Họ đã cam kết sẽ giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực và sẽ đàm phán một bộ quy tắc ứng xử (COC) nêu ra cách hành xử có trách nhiệm trên biển.
Tuy nhiên, trong 13 năm sau đó, các công việc đàm phán về bộ quy tắc đã bị đình trệ và DOC không đủ khả năng ngăn chặn đối đầu hay giúp các bên giải quyết tranh chấp một cách hoà bình. Gần đây, mức độ quan ngại của khu vực leo thang nhanh chóng khi quy mô và tốc độ cải tạo đất của Trung Quốc được công khai. Tuyên bố chủ tịch của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN vào tháng 4 đã nêu vấn đề thẳng thắn một cách bất thường – đó là “quan ngại một cách nghiêm trọng về hoạt động cải tạo đảo trên Biển Đông, có thể làm xói mòn lòng tin ở khu vực và tổn hại hoà bình, an ninh và ổn định”. Đối với ASEAN, tôi tin đây là một tuyên bố rất mạnh.
Mặc dù tuyên bố Trung Quốc ngày 16/6 là sẽ sớm dừng hoạt động cải tạo đảo để nhằm trấn an dư luận nhưng hệ quả của những hoạt động này vẫn rất đáng báo động. Trung Quốc đã khẳng định trong tuyên bố đó là có thể xây dựng các cơ sở quân sự trên các đảo cải tạo. Vì vậy Mỹ đang thúc giục các bên cần làm sống lại tinh thần hợp tác như đã nêu trong tuyên bố ứng xử năm 2002.
Chúng tôi cho rằng trong ASEAN có một sự đồng thuận rộng rãi về việc giảm căng thẳng và thúc đẩy giải quyết tranh chấp hoà bình. Mỹ ủng hộ các nỗ lực của ASEAN trong việc nhanh chóng đạt được một COC hiệu quả và mạnh mẽ, được xây dựng dựa trên DOC bằng cách truyền tải tinh thần hợp tác thông qua việc quy định rõ các hành động được phép và không được phép tiến hành trên Biển Đông.
Nhưng để làm được điều này, các bên cần phải tạo ra không gian cho ngoại giao. Nếu chúng ta nhớ lại nguyên tắc cơ bản đó là “khi bạn đang ở trong hố, thì không nên tiếp tục đào sâu hơn nữa” thì đây chính là lời khuyên mà Mỹ đang muốn gửi đến các bên yêu sách. Cần giảm nhiệt, tạo ra không gian thương thảo bằng cách (i) dừng hoạt động cải tạo trên các thực thể ở Biển Đông, (ii) dừng xây dựng các cơ sở mới, (iii) dừng quân sự hoá các điểm chiếm đóng hiện tại.
Rõ ràng đây là những bước đi mà các bên yêu sách có thể cam kết ngay lập tức, không tốn của họ một chút gì mà có thể làm giảm căng thẳng và rủi ro, đồng thời mở đường cho việc tiến tới giải quyết dứt điểm tranh chấp. Ngoại trưởng John Kerry đã thẳng thắn nêu quan điểm này với Trung Quốc và các bên yêu sách khác, và sẽ gặp những người đồng cấp của ông đầu tháng tới ở Malaysia trong cuộc họp Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) nhằm thúc đẩy tiến triển ở Biển Đông. Đây là một ưu tiên quan trọng đối với Mỹ.
Các bước đi tiến tới việc dừng toàn bộ các hoạt động ở Biển Đông và một bộ quy tắc ứng xử sẽ tạo ra không gian đối ngoại và gìn giữ hoà bình nhưng chúng sẽ không giải quyết vấn đề ranh giới biển và chủ quyền đối với các thực thể. Vậy hướng đi sắp tới sẽ là gì?
Khi có các yêu sách đối lập thì có hai cách giải quyết hòa bình đối với các bên tranh chấp đó đàm phán hoặc phân xử bằng tòa trọng tài. Các quốc gia trong khu vực trên thực tế đã giải quyết tranh chấp biển và lãnh thổ một cách hòa bình và hợp tác bằng cả hai con đường đàm phán trực tiếp và thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp bên thứ ba. Có thể nêu một vài ví dụ như Indonesia và Philippines gần đây đã thống nhất về biên giới biển, Malaysia và Singapore đã dùng đến thủ tục tại Tòa án Công lý Quốc tế để giải quyết mâu thuẫn liên quan đến eo biển Singapore, Tòa Trọng tài Luật biển quốc tế đã phân định ranh giới biển giữa Bangladesh và Myanmar. Rõ ràng là điều này hoàn toàn có thể thực hiện được.
Có một điểm chung về các tranh chấp biên giới biển đã được giải quyết một cách hòa bình, đó là các bên đều có yêu sách và yêu sách rất mạnh mẽ nhưng họ khẳng định các yêu sách của mình dựa trên các thực thể đất liền và các bên sẵn sàng giải quyết mâu thuẫn của mình trên cơ sở phù hợp với luật quốc tế.
Đây chính là lý do vì sao từ trước đến nay Mỹ đều nhất quán kêu gọi các bên tranh chấp làm rõ phạm vi yêu sách của mình ở Biển Đông trên cơ sở phù hợp với luật quốc tế như được thể hiện trong Công ước Luật Biển 1982 (UNCLOS). Làm vậy sẽ giúp thu hẹp những bất đồng và tạo nền tảng cho đàm phán và các giải pháp mang tính hợp tác khác.
Đáng tiếc là tôi không thấy có ai tin rằng có thể đạt được một kết quả đàm phán giữa Trung Quốc và các bên yêu sách trong bối cảnh như hiện nay. Bên cạnh đó, các yêu sách chồng chéo nhiều bên ở một số vùng ở Biển Đông khiến việc đạt được một giải pháp càng khó khăn hơn. Và trên hết là lập trường chính trị cực đoan của một số bên khăng khăng cho rằng yêu sách của họ là “không thể chối cãi” bởi đấy là lãnh thổ của họ, dù nó cách rất xa so với bờ biển của họ, “được tổ tiên trao cho họ” và thề rằng sẽ không từ bỏ “dù một tấc đất”.
Điều này sẽ dẫn chúng ta đến đâu? Và vụ kiện trọng tài sẽ như thế nào? Như quý vị đã biết, hiện nay đang diễn ra một vụ kiện trọng tài giữa Philippines và Trung Quốc theo UNCLOS. Trọng tâm của vụ kiện là về cái gọi là đường chín đoạn, liệu đường này có cơ sở pháp lý nào theo luật pháp quốc tế không? Và các thực thể mà Trung Quốc đang chiếm đóng ở Biển Đông có thể tạo ra các đặc quyền biển không và nếu có thì sẽ được hưởng những vùng biển nào? Nói cách khác, bất kể bên nào là chủ sở hữu thì các thực thể, ví dụ như Đá Vành Khăn, sẽ được hưởng vùng biển 12 hải lý hay vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa?
Đây là những câu hỏi mà Tòa được yêu cầu phân xử. Điều cần lưu ý ở đây là Tòa không được yêu cầu, và trên thực tế cũng không có thẩm quyền, phân xử về vấn đề chủ quyền của các thực thể tranh chấp. Mọi người đều hiểu rằng vấn đề chủ quyền nằm ngoài phạm vi thẩm quyền của Tòa. Các bên yêu sách cần đồng ý đưa tranh chấp ra một tòa án hoặc tòa trọng tài, thường sẽ là Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ). Nhưng theo UNCLOS, tòa được xem xét có thẩm quyền đối với các vấn đề thuộc UNCLOS và các vấn đề mà Philippines nêu ra. Và nếu tòa có thẩm quyền, tòa sẽ xem xét liệu các lập luận của Philippines có giá trị hay không.
Tất nhiên, Mỹ không phải là một bên tham gia vụ kiện này. Chính sách của Mỹ là không đưa ra quan điểm về vụ kiện. Nhưng khi Philippines và Trung Quốc trở thành thành viên của UNCLOS, cả hai nước đều nhất trí với cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của công ước này. Và theo đó, phán quyết của tòa trọng tài sẽ có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp. Đây là một hiệp ước. Và để giữ gìn vai trò của luật pháp, cả Philippines và Trung Quốc đều có nghĩa vụ chấp hành bất kỳ phán quyết nào của vụ kiện, dù thích hay không.
Trung Quốc cho rằng Tòa không có thẩm quyền đối với vụ kiện và Tòa hiện đang xem xét cụ thể vấn đề này trong buổi điều trần vừa mới kết thúc ở La Hay bằng cách nghiên cứu kỹ lưỡng Tài liệu Lập trường của Trung Quốc. Chúng ta sẽ chờ xem kết quả như thế nào. Nhưng nếu Tòa cho rằng mình có thẩm quyền, Tòa sẽ tiếp tục xem xét các vấn đề nội dung của vụ kiện, bao gồm tính hợp pháp trong yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc.
Trong trường hợp Tòa kết luận rằng đường chín đoạn không phù hợp với luật quốc tế và các thực thể nêu trong vụ kiện không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa thì phạm vi chồng lấn của các thực thể tranh chấp và các điểm tranh chấp sẽ được giảm thiểu một cách đáng kể. Nhưng chúng ta cũng cần nhớ là kể cả có phán quyết như vậy thì vấn đề chủ quyền và ranh giới biển vẫn chưa được giải quyết.
Tôi đã nhắc rất nhiều đến UNCLOS mặc dù Mỹ vẫn chưa thông qua công ước này. Thực chất, việc phê chuẩn UNCLOS đã được rất nhiều chính quyền, Dân chủ cũng như Cộng hòa ủng hộ, kể từ khi UNCLOS được ký và gửi lên Thượng viện năm 1994. Việc phê chuẩn cũng được quân đội, các ngành công nghiệp, các tổ chức môi trường và các chủ thể liên quan khác ủng hộ. Vì lợi ích an ninh của Mỹ, tôi hy vọng rằng Thượng viện Mỹ sẽ ủng hộ và sớm thông qua việc phê chuẩn.
Tuy nhiên, ngay cả khi chúng tôi khuyến khích các bên tôn trọng UNCLOS và tìm kiếm các giải pháp lâu dài, Mỹ có nghĩa vụ bảo vệ các lợi ích của mình. Tôi xin trình bày các lợi ích đó là gì:
- bảo vệ quyền tự do hàng hải và hàng không không bị cản trở và các quyền sử dụng biển hợp pháp bao gồm thương mại không bị cản trở bởi tất cả các quốc gia chứ không riêng gì hải quân Mỹ;
- tôn trọng các cam kết với đồng minh và củng cố lòng tin của các đối tác và khu vực đối với nước Mỹ;
- hỗ trợ sự phát triển hiệu quả của các thể chế khu vực bao gồm một ASEAN thống nhất;
- thúc đẩy các hành xử có trách nhiệm đối với một môi trường biển rất quan trọng;
- khuyến khích sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc theo cách tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn giữ được ổn định khu vực; phù hợp với luật pháp và các tiêu chuẩn quốc tế
- cuối cùng và trên hết là ủng hộ một trật tự quốc tế dựa trên sự tuân thủ luật pháp và giải quyết hòa bình tranh chấp mà không đe dọa hay sử dụng vũ lực.
Trên thực tế, bên cạnh sự ủng hộ của chúng tôi dành cho vai trò của pháp luật, chúng tôi đang tiến hành các bước đi giúp các nước cùng hợp tác với nhau trong các vấn đề biển. Ví dụ như hiện tại Mỹ đang đầu tư rất nhiều vào việc xây dựng năng lực nhận thức biển cho các nước ven biển bởi điều này sẽ giúp các nước bảo vệ an toàn trên biển, đối phó với các thách thức như cướp biển, ô nhiễm môi trường biển, nạn buôn lậu trái phép. Quan trọng hơn, tăng cường nhận thức biển cũng giúp thúc đẩy sự minh bạch, và điều này phù hợp với lời kêu gọi của Mỹ đến tất cả các bên yêu sách cần công khai hơn về năng lực, hành động và ý định của mình trên biển.
Các hoạt động tự do hàng hải cũng là một phần trong chính sách toàn cầu của Mỹ nhằm khuyến khích sự tuân thủ luật pháp quốc tế trên biển. Mục đích của chúng tôi là đảm bảo rằng không những hải quân và không quân Mỹ có thể thực hiện các quyền tự do hàng hải và hàng không của mình mà ngay cả tàu thuyền và máy bay của những quốc gia nhỏ nhất cũng có thể thực hiện các quyền này mà không bị rủi ro gì. Các nguyên tắc về quyền tự do thương mại không bị cản trở phải được áp dụng như nhau đối với tàu thuyền của tất cả mọi quốc gia trên thế giới.
Và theo luật pháp quốc tế, tất cả các quốc gia không riêng gì Mỹ được tận hưởng quyền tự do sử dụng biển một cách hợp pháp và nhiệm vụ của ngoại giao và các hoạt động quân sự của Mỹ là bảo vệ các quyền đó. Vì vậy đối với Mỹ, vấn đề không phải là các đảo đá và bãi cạn ở Biển Đông hay là các nguồn tài nguyên trong hay dưới vùng biển này, mà vấn đề chính là các luật lệ, là môi trường khu vực mà chúng ta đang sinh sống. Thế nên, Mỹ sẽ tiếp tục bảo vệ các luật lệ, tiếp tục khuyến khích các quốc gia tuân thủ luật lệ. Chúng tôi sẽ kêu gọi các nước tuân thủ nguyên tắc về tình láng giềng hữu nghị, tránh các cuộc đối đầu nguy hiểm.
Tôi xin kết thúc bằng việc nhắc lại rằng chúng tôi đang có hàng loạt sáng kiến hợp tác dự định sẽ triển khai trong khuôn khổ các cuộc họp ASEAN, ARF, APEC và EAS sắp tới. Mục đích chính là để tạo nên các tiến triển nhanh chóng và hiệu quả ở Biển Đông trong khi tình hình căng thẳng đang có vẻ lắng dịu. Tổng thống Obama và Ngoại trưởng Kerry đã tỏ rõ rằng mình không ngại đối mặt với những thách thức khó khăn nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ và của thế giới. Chúng ta đã nhiều lần chứng kiến điều này. Dù đã đến giai đoạn cuối của chính quyền Obama nhưng Mỹ luôn sẵn sàng làm nhiều hơn nữa để thắt chặt quan hệ với đồng minh, ASEAN và Trung Quốc.
Đối với Mỹ, khu vực hay Trung Quốc, tìm ra một con đường đi hợp pháp, hòa bình và có trách nhiệm đối với tranh chấp ở Biển Đông là một điều kiện tiên quyết để đạt được các mục tiêu lâu dài và rộng lớn của mình. Và tôi xin dừng ở đây để dành chút thời gian cho phần hỏi đáp.
Hỏi đáp
Hỏi (Ngô Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Hải, Trung Quốc): Tôi có hai câu hỏi, câu hỏi thứ nhất là về chính sách của Mỹ ở Biển Đông và câu hỏi thứ hai là về hoạt động cải tạo đạo như ông vừa nêu trong bài phát biểu. Thứ nhất về chính sách của Mỹ ở Biển Đông, chúng ta đã biết trước giờ Mỹ giữ quan điểm trung lập và chính sách này cho đến nay vẫn phát huy hiệu quả. Nhưng theo quan điểm Trung Quốc, Mỹ không còn duy trì chính sách này nữa. Mỹ dường như đang ủng hộ một bên nào đó, nếu như chúng ta nhìn vào vụ kiện và vụ việc ở Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) hay như vụ triển khai giàn khoan ở khu vực Hoàng Sa năm ngoái. Thứ hai, về việc cải tạo, tôi cho rằng Trung Quốc sẽ không dừng việc xây dựng trên các đảo cải tạo. Vậy thì Mỹ sẽ có phản ứng như thế nào nếu như Trung Quốc không đáp ứng yêu cầu dừng các hoạt động xây dựng trên các đảo đó và liệu Bộ Ngoại giao Mỹ có chia sẻ cùng lập trường với Bộ Quốc phòng không?
Trả lời: Cảm ơn câu hỏi của ông. Thực ra ông không phải hình dung về chính sách của Mỹ vì nó được công khai rất rõ ràng. Đối với câu hỏi thứ nhất về sự trung lập, tôi rất hân hạnh khi có dịp được làm rõ sự hiểu lầm trong quan điểm của Trung Quốc về chính sách của Mỹ. Chúng tôi không hề trung lập khi vấn đề có liên quan đến việc tuân thủ luật pháp quốc tế. Chúng tôi sẽ mạnh mẽ đứng về phía luật pháp nhưng chúng tôi không đưa ra quan điểm gì đối với các yêu sách chủ quyền. Điều đó có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là chúng tôi lo ngại về các hành vi, về cách mà các bên đưa ra yêu sách – chúng tôi cho rằng nó phải dựa trên luật pháp quốc tế, dựa trên các thực thể đất liền. Chúng tôi cũng quan tâm đến cách thức các bên thúc đẩy yêu sách của mình, tức hành vi của các bên trong việc thúc đẩy lợi ích và các yêu sách lãnh thổ của mình. Và điều mà chúng tôi theo đuổi là sự can dự ngoại giao một cách hòa bình. Chúng tôi phản đối sự cưỡng ép, đe dọa hay sử dụng vũ lực để thúc đẩy yêu sách. Vì vậy, có thể nói sự trung lập của chúng tôi nằm ở chỗ giá trị của các yêu sách – chúng tôi không có quan điểm và cũng không quan tâm liệu các thực thể thuộc về quốc gia nào và như thế chúng tôi không đi ngược lại quyền lợi của bất kỳ bên nào. Nhưng điều chúng tôi thực sự quan tâm là ổn định của khu vực, các nguyên tắc phổ quát về quyền tự do hàng hải và hàng không, thương mại hợp pháp không bị cản trở v.v… Và chúng tôi cũng đặc biệt quan tâm về quyền của một quốc gia được sử dụng các cơ chế hợp pháp quốc tế như một phương tiện để bảo vệ quyền lợi của mình, tìm kiếm công lý và giải quyết tranh chấp. Có một câu nói rất nổi tiếng của Voltaire rằng “Tôi không đồng ý với những gì bạn nói nhưng tôi sẽ bảo vệ đến cùng quyền được nói của bạn”. Mỹ không đứng về phía Philippines để chống Trung Quốc trong vụ kiện của họ nhưng Mỹ sẽ bảo vệ quyền của Philippines hay bất kỳ quốc gia thành viên nào khác của UNCLOS nhằm thực hiện các quyền của họ theo công ước, cũng giống như cách Mỹ công nhận quyền lợi của mọi nước khác bao gồm Trung Quốc trong việc sử dụng các cơ chế quốc tế chẳng hạn như cơ chế giải quyết tranh chấp trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mặc dù điều đó có thể gây bất lợi cho Mỹ. Đó không phải là thiên kiến mà là sự công bằng.
Câu hỏi thứ hai của ông đã nêu lên một vấn đề rất quan trọng. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như Trung Quốc vì lợi ích hòa bình và ổn định của khu vực đồng ý cùng với các bên khác thực hiện một lệnh tạm dừng các hoạt động cải tạo, nâng cấp hay quân sự hóa các đảo. Khi đó phản ứng của Mỹ sẽ là gì? Tôi nghĩ có một vài bước đi khác nữa mà Trung Quốc có thể tiến hành nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi ở Mỹ, tạo ra sự tiến triển cho quan hệ Mỹ-Trung. Tôi cho rằng các quan ngại do căng thẳng, tranh chấp và hành xử ở Biển Đông đã gây ra rất nhiều lo lắng và nghi vấn cho các công dân Mỹ. Những nghi vấn này sẽ được giải quyết một cách thuyết phục nếu Trung Quốc ở ngay trong vùng Biển Đông nhạy cảm này thể hiện sự kiên nhẫn, kiềm chế, đánh giá chiến lược tốt hơn và tạo ra không gian, thời gian cho việc đàm phán bộ quy tắc ứng xử mà chúng ta mong muốn hoàn thành vào cuối năm nay. Và cuối cùng là hướng đến giải quyết dứt điểm tranh chấp.
Hỏi (đại biểu đến từ Tập đoàn Truyền thông Thượng Hải): Cách đây vài ngày, Đô đốc Swift đã tham dự tuần tra Biển Đông trên máy bay P8-A Poseidon. Đây có vẻ là một bước đi leo thang căng thẳng ở khu vực. Như vậy, theo ông, có phải thực sự Mỹ đang giảm nhiệt ở Biển Đông khi có một chỉ huy thực hiện bay giám sát ở đây? Và như chúng ta đã biết Tổng thống Obama vừa có cuộc điện đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình, vậy công tác chuẩn bị đang được tiến hành như thế nào cho cuộc viếng thăm sắp tới của ông Tập đến Mỹ?
Trả lời: Tôi đã làm việc tại Nhà Trắng và một nguyên tắc mà tôi học được đó là mọi tin tức về Tổng thống, hãy để Nhà Trắng thông báo. Vì vậy, tôi sẽ không tiết lộ thông tin gì về nội dung cuộc điện đàm giữa Tổng thống Obama và Chủ tịch Tập cũng như các kế hoạch hay chi tiết hậu cần của chuyến thăm sắp tới. Nhưng tôi có thể khẳng định rằng việc Tổng thống Obama duy trì tiếp xúc thường xuyên với Chủ tịch Tập và Thủ tướng Lý thông qua điện đàm, các cuộc gặp chính thức hay bên lề các hội nghị thể hiện sự coitrọng của chúng tôi đối với việc duy trì các kênh đối thoại mở giữa hai bên. Với tư cách là người tham dự các cuộc họp trên, tôi có thể nói rằng hai bên đã rất tích cực trong việc mở rộng các lĩnh vực hợp tác thực chất và thu hẹp bất đồng. Điều này rất quan trọng. Một trong những ví dụ là việc đạt được kế hoạch hành động chung toàn diện về Iran – Trung Quốc là một thành viên rất tích cực trong cả việc đàm phán lẫn thực hiện. Nhưng tôi biết Tổng thống Obama cũng đã nêu rất rõ quan ngại của mình đối với Chủ tịch Tập và các quan chức cấp cao về tình hình ở Biển Đông, về căng thẳng giữa Trung Quốc và nhiều nước láng giềng bởi điều này sẽ không mang lại lợi ích cho bất kỳ bên nào, kể cả Mỹ. Chúng tôi muốn Trung Quốc cũng có mối quan hệ nồng ấm và tốt đẹp với các nước Đông Nam Á như chúng tôi đang có hiện nay.
Về câu hỏi thứ nhất của ông, Đô đốc Swift vừa mới nhận nhiệm vụ chỉ huy lực lượng hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương. Ông ấy đang tiến hành loạt chuyến thăm đầu tiên đến các nước đồng minh và đối tác ở khu vực, vì vậy việc ông tham gia vào một chuyến bay tuần tra thường xuyên là một bước đi hoàn toàn bình thường. Nó không hề đại diện cho một sáng kiến chính sách nào cả. Tuy nhiên nó đại diện cho một nguyên tắc quan trọng mà chúng tôi ủng hộ, đó là nguyên tắc về sự minh bạch. Tôi sẽ nói một cách rất đơn giản: sử dụng máy bay do thám là tốt, còn dùng máy bay chiến đấu mới là xấu. Sự minh bạch là một những thứ tốt nhất đối với chúng tôi, hiểu rõ và biết rõ mọi chuyện đang diễn ra rất quan trọng đối với tất cả chúng ta. Chúng tôi khuyến khích và sẵn sàng những chia sẻ những thông tin mà chúng tôi quan sát và thu thập được một cách miễn phí. Sự minh bạch này nên là một thuộc tính của một khu vực mở và hòa bình mà chúng ta muốn cùng sinh sống trong đó. Sự hiện diện của Hạm đội 7, của quân đội Mỹ ở Tây Thái Bình Dương là để gìn giữ hòa bình, đó là mục tiêu của chúng tôi và là nhiệm vụ của Đô đốc Swift.
Hỏi (đại biểu đến từ kênh truyền hình Đài Loan): Cảm ơn ông về bài phát biểu về chính sách Mỹ ở Biển Đông. Về vấn đề cải tạo đảo, ông phản ứng như thế nào với một số lập luận của Trung Quốc cho rằng Mỹ không phải đang quan tâm đến vấn đề luật lệ, mà chủ yếu là vấn đề ai đang làm, quy mô và tốc độ của việc cải tạo. Bởi Trung Quốc cho rằng các bên khác đã tiến hành việc cải tạo nhiều năm trước đây như Mỹ im lặng, nhưng đến khi Trung Quốc thực hiện việc này thì Mỹ lại lên tiếng phản đối. Liệu quan điểm này có đúng không?
Trả lời: Câu trả lời đơn giản đó là có một loạt các yếu tố khiến cho những hoạt động của Trung Quốc trong vòng 14 tháng qua trở nên rất khác biệt. Thứ nhất là riêng quy mô của việc cải tạo đã quá lớn, hơn 2000 mẫu Anh (acres) đất được bồi đắp ở Trường Sa. Thứ hai là tốc độ: trong vòng gần hai thập kỷ Việt Nam, có thể là Philippines và Malaysia chỉ cải tạo khoảng 5-10 mẫu. Trong khi đó, chỉ hơn một năm, Trung Quốc đã cải tạo một diện tích gấp 20-30 lần. Đây là hoạt động cải tạo với quy mô và tốc độ đáng kinh ngạc. Thứ ba là vấn đề năng lực. Tôi sẽ không nhận định về năng lực của Việt Nam hay Philippines nhưng rõ ràng so với Trung Quốc thì họ kém xa trong khả năng triển khai sức mạnh quân sự. Thứ tư là sự khác nhau về ý định. Rất nhiều quốc gia trong khu vực lo ngại về ý định của Trung Quốc. Họ nhìn lại, chỉ ra các sự kiện đã xảy ra như xung đột hay trả đũa bao gồm trả đũa bằng kinh tế và tự hỏi điều gì sẽ xảy ra. Đây là những yếu tố khiến khu vực và dĩ nhiên là nước Mỹ phải cân nhắc. Rõ ràng là hoạt động của Trung Quốc khác hẳn so với các bên yêu sách khác ở Đông Nam Á. Mặc dù như vậy, chúng tôi không phải đang thúc đẩy một hướng đi gây bất lợi cho Trung Quốc vì như tôi đã nhiều lần khẳng định, chúng tôi không có quan điểm về tranh chấp chủ quyền. Chúng tôi không nói rằng Trung Quốc không có yêu sách mạnh đối với một số thực thể ở Trường Sa hay Biển Đông. Thay vào đó, chúng tôi cho rằng vì lợi ích giải quyết hòa bình tranh chấp và tránh rủi ro, tất cả các bên tranh chấp chứ không riêng gì Trung Quốc, trong bối cảnh hiện nay, cần suy nghĩ lại, cần dừng các hoạt động cải tạo và các kế hoạch quân sự hóa các điểm chiếm đóng. Dù cho có đắp đất cao đến đâu đi nữa thì những hoạt động này cũng không mang lại chủ quyền cho bất cứ bên nào. Những hoạt động này không làm lợi thêm cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc dưới góc độ luật pháp quốc tế. Nhưng triển vọng sử dụng các đảo nhân tạo này làm cơ sở cho việc triển khai sức mạnh quân sự – điều khiến các nước khu vực đang lo lắng – là một vấn đề đáng quan ngại. Cho nên vấn đề chính vẫn là cách hành xử và chúng tôi cho rằng giải pháp duy nhất là việc kiềm chế dưới hình thức là một lệnh dừng hoàn toàn các hoạt động cải tạo bởi tất cả các bên chứ không riêng gì Trung Quốc.
Đây là nội dung bài phát biểu của Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Daniel Russel tại Hội thảo lần thứ năm về Biển Đông của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (CSIS), Washington, D.C., ngày 21/7/2015.
Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông