Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Âu và Bắc Việt thời kì hậu Stalin (P2)

Khrushchev,_Mao,_Ho_and_Soong_Ching-ling

Nguồn: Yinghong Cheng, “Beyond Moskva-Centric Interpretation: An Examination of the China Connection in Eastern Europe and North Vietnam during the Era of De-Stalinization”, Journal of World History, Vol. 15, No. 4, December 2004.

Biên dịch: Lê Quỳnh

Trường hợp Việt Nam

Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Việt Nam cần được xem xét theo một ánh sáng hoàn toàn khác. Nếu ảnh hưởng Trung Quốc ở Đông Âu đến muộn (sau khi Stalin chết) và chỉ ở mức hạn chế so với ảnh hưởng của Liên Xô tại khu vực, thì mối quan hệ thân cận – được thúc đẩy nhờ liên hệ truyền thống và văn hoá giữa hai nước – giữa những người cộng sản Việt–Trung sâu sắc hơn và có từ thập niên 1920. Nhiều người cộng sản Việt Nam, gồm cả Hồ Chí Minh, từng tham gia phong trào cộng sản Trung Quốc và ẩn náu ở Trung Quốc trong thập niên 1930 và đầu 1940. Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 không chỉ đẩy mạnh hỗ trợ bằng hình thức cố vấn và vật chất cho cách mạng Việt Nam, mà còn cung cấp một mô hình cạnh tranh. Tháng Ba 1951, tại Đại hội Hai của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Mao được đặt chung với chủ nghĩa Marx–Lenin làm kim chỉ nam cho cương lĩnh mới của Đảng. Hình của Mao được treo ngang hàng với hình của Marx, Engels, Lenin và Stalin.[1] 

Trong khung cảnh lịch sử này, những phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn hậu Stalin có nhiều liên hệ với Trung Quốc hơn là với Liên Xô. Với các nước Đông Âu, các vấn đề lớn nhất của họ lúc này xuất phát từ việc thực thi mô hình Stalin như quá nhấn vào công nghiệp nặng, thiếu các vật phẩm căn bản hàng ngày, sự phẫn uất vì các đợt thanh trừng, sự tàn nhẫn của công an, và lại thêm cả kiểm soát chính trị từ Moskva. Khác với Đông Âu, những vấn đề khó khăn nhất của Bắc Việt là do bắt chước mô hình Trung Quốc. Trong số các hành động mượn của Trung Quốc, có ba cái đặc biệt gây bức bối. Thứ nhất là cải cách ruộng đất: bất kì một nông dân giàu có nào cũng có thể bị gán là “địa chủ”, bị đưa ra “toà án nhân dân” và bị hành quyết mà không cần tiến trình pháp lý nào, và những ai thông cảm thì có thể bị phạt nặng. Thứ hai là cải tạo tư tưởng: các trí thức, ngay cả những vị đã đồng lòng tham gia cách mạng, bị bắt tham dự các trường, lớp học đặc biệt để cải tạo và bị buộc thú tội. Thứ ba là kiểm soát trí thức bằng một chính thể quân sự. Điều này là vì cho đến tháng Hai 1955, Bắc Việt không có Bộ Văn hoá, và đa số trí thức tham gia kháng chiến chống Pháp – đặc biệt là văn nghệ sĩ – đều nhập ngũ và chịu kiểm soát của Tổng cục Chính trị, một cơ quan hình thành theo mẫu của Liên Xô, và trực tiếp hơn, của Trung Quốc. Nhiều chính trị viên đã học ở Trung Quốc và chỉnh huấn hoạt động của trí thức thông qua kỷ luật quân đội: ví dụ, khi họ muốn ra khỏi doanh trại thì cũng phải có thẻ, giống như những người lính.

Sau cái chết của Stalin, giống như các nước khác trong thế giới cộng sản, các tiếng nói chống đối cũng xuất hiện trong giới trí thức Bắc Việt ngay từ năm 1955. Vào tháng Hai, khoảng 30 nhà văn, hoạ sĩ trong quân đội viết “Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá”, bao gồm ba đòi hỏi: 1) trao lại sự lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ; 2) thành lập một hội văn nghệ bên trong cơ cấu quân đội; 3) bãi bỏ cơ chế quân sự kiểm soát văn nghệ sĩ phục vụ trong quân đội. [2] Nhân vật hàng đầu trong nhóm phản kháng này là Trần Dần. Cùng tháng ấy, Trần Dần dẫn đầu khoảng 20 nhà văn, hoạ sĩ đến nói chuyện với tướng Nguyễn Chí Thanh, người đứng đầu Tổng cục Chính trị. Họ đề đạt ba yêu cầu tập trung vào tự do sáng tạo cho nhà văn và nghệ sĩ. Thỉnh cầu chính trị này bị viên tướng từ chối và ông lên án các trí thức bộ đội, rằng hành động của họ “chứng tỏ ý thức hệ tư bản đã bắt đầu tấn công các đồng chí”. [3] Thất bại của thỉnh nguyện này làm các trí thức bực bội, những người ngây thơ tin rằng sự đóng góp của họ cho cách mạng đã chiếm được niềm tin của Đảng, và điều này chuẩn bị cơ sở cho thách thức quyết liệt hơn của giới trí thức vào năm sau.

Đặt trong bối cảnh rộng lớn hơn, Trần Dần và nhóm của ông góp một phần vào phong trào “Tan băng” trong thế giới cộng sản hồi giữa thập niên 1950, do các nhà văn, nghệ sĩ thúc đẩy và nhắm vào học thuyết “hiện thực xã hội chủ nghĩa” của Stalin và sự kiểm soát của Đảng đối với trí thức. [4] Nhưng trường hợp Trần Dần cũng thể hiện một liên hệ với Trung Quốc. Ông có mặt ở Trung Quốc năm 1954, khi vụ Hồ Phong xảy ra. Hồ Phong, một nhà phê bình văn học và là đảng viên lâu năm, gửi một lá thư dài cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng Bảy 1954, chỉ trích sự thống trị của các cai tổng văn nghệ, rằng việc ép buộc xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa đã không để cho sáng tạo có tự do, và thái độ quan cách của các lãnh đạo văn nghệ càng làm cho nhà văn và trí thức bực bội. Mặc dù ông không có ý định thách thức quyền uy của Đảng, nhưng hành động của Hồ Phong phản ánh sự bực bội trong nhiều trí thức, nghệ sĩ và được xem là bằng chứng sớm nhất của sự phân rẽ giữa Đảng và trí thức sau ngày thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Nhưng đến cuối năm 1954, cánh văn nghệ của Đảng mở cuộc phản kích và buộc Hồ Phong làm tự kiểm, và đến tháng Năm 1955, chiến dịch chống Hồ Phong đã trở thành rầm rộ. Ông bị bắt tháng Sáu 1955 và bị giam cho đến cuối kỳ Cách mạng Văn hoá.

Chắc chắn Trần Dần có biết những tư liệu liên quan đến lá thư của Hồ Phong: ông đang ở Trung Quốc vào lúc lá thư tạo ra chấn động và thảo luận trong giới trí thức Trung Quốc. Cũng chắc chắn Trần Dần có cảm tình với Hồ Phong, vì bản thân ông gặp xung khắc với chính dạng lãnh đạo văn nghệ mà Hồ Phong chỉ trích. Trần Dần được cho đi Trung Quốc để hoàn tất kịch bản bộ phim về chiến thắng Điện Biên Phủ. Theo thông lệ, đi cùng ông là một chính trị viên mà sau đó ông có mâu thuẫn vì người kia xen vào công việc sáng tạo của ông. Trần Dần cũng ghét sự áp dụng “hiện thực xã hội chủ nghĩa”, giống như Hồ Phong. Cùng thời điểm ông mở tranh luận với tướng Nguyễn Chí Thanh, Trần Dần cũng đăng bài phê phán tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tố Hữu có chân trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách hoạt động trí thức và văn nghệ, và tập thơ của ông được xem là ví dụ mẫu mực khi mô tả các anh hùng. Công kích thứ văn chương “hiện thực xã hội chủ nghĩa” kiểu Tố Hữu, Trần Dần nhấn mạnh: “Realism encourages a hundred schools to thrive both in substance and in form”. Điều này khiến Boudarel đặt giả thiết là “ngay từ tháng Hai 1955, một chiến dịch Trăm hoa Đua nở đã hình thành trong Ban Văn nghệ của quân đội Bắc Việt. Nó xảy ra một năm trước khi một phong trào có tên như thế bắt đầu ở Trung Quốc, và gần hai năm trước khi chính sách này có hiệu lực.” [5] Tuy nhiên, cụm từ “bách gia” thực sự đã có từ thời cổ sử Trung Hoa, chỉ không khí tranh đua triết lý và tư tưởng trong giai đoạn Xuân Thu và Chiến Quốc (thế kỷ tám đến thế kỷ ba trước Công nguyên). Khi đã biết ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc ở Việt Nam, sẽ không phải vô lý khi giả định rằng Trần Dần đã dùng cụm từ này mà không nhận biết về nguồn gốc của nó. Ngoài ra, lần đầu tiên cụm từ “bách hoa tề phóng” có mặt trong đời sống văn hoá Trung Quốc là năm 1951, khi Mai Lan Phương, nam diễn viên nhạc kịch nổi danh nhất Trung Quốc, nhờ Mao ra chỉ thị cho Học viện Nhạc kịch Truyền thống Trung Quốc vừa mới thành lập. Mao bảo: “Hãy để trăm hoa đua nở, để thể loại mới thay thế cái cũ.” [6]

Còn về cụm từ “bách gia tranh minh”, thì đó là câu trả lời của Mao cho cuộc tranh luận giữa Quách Mạt Nhược và Phạm Văn Lan, hai sử gia có tiếng, về cách làm thế nào áp dụng lý thuyết của Marx vào việc nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc. Chính trong bối cảnh này Trần Bá Đạt, thư ký riêng và là trưởng ban nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, đã yêu cầu Mao đưa ra chỉ thị[7] . Như vậy, cả “trăm hoa” và “trăm nhà” đều đã được dùng ở Trung Quốc từ 1953 cho công tác học thuật và sân khấu, mặc dù chúng được đề đạt riêng rẽ, lan toả trong từng giới, và chưa mang ý nghĩa chính trị sâu sắc cho đến giai đoạn hạ bệ Stalin mùa Xuân 1956.

Theo Kim N. B. Ninh, sự bất mãn của trí thức Việt Nam với chính quyền không phải bắt đầu từ cuộc xung khắc giữa Trần Dần với Đảng mà đã có từ cuối thập niên 1940 [8] . Vì thế liên hệ Trung Quốc trong trường hợp Trần Dần có thể được xem là cảm hứng khiến ông bày tỏ (cùng nhiều người khác) những bức bối đã có từ trước. Sau này các bạn của Trần Dần thừa nhận liên hệ giữa Hồ Phong và Trần Dần trong bức tranh biếm hoạ đăng trên Nhân văn, tờ báo phản kháng có ảnh hưởng nhất, trong số ra ngày 30-9. Đảng thậm chí nhận ra sự liên hệ này, và ta không ngạc nhiên là khi Trần Dần bị bắt tháng Hai 1956 – sáu tháng sau khi Hồ Phong bị giam – thì một số cán bộ nói lý do của việc bắt giữ là “Trung Quốc có Hồ Phong, có lẽ chúng ta cũng có một Hồ Phong.” [9] Như tác giả Kim N. B. Ninh chỉ ra, “Có vẻ chiến dịch chống Hồ Phong dữ dội ở Trung Quốc đã làm tăng sự cảnh giác ở Việt Nam” và kết quả là Trần Dần trở thành nạn nhân của sự cảnh giác đó [10] .

Tuy nhiên, ngay sau khi Trần Dần bị bắt, bối cảnh quốc tế lại trở nên có lợi cho giới trí thức. Liên Xô tổ chức Đại hội 20 vào tháng Hai và Trung Quốc loan báo Chính sách Trăm hoa vào tháng Hai, cả hai sự kiện ngay lập tức có tác động tới quan hệ giữa trí thức Việt Nam và Đảng. Để giới thiệu đường lối mới của Liên Xô, Anastas Mikoyan, phó Thủ tướng thứ nhất của Liên Xô, đến Bắc Kinh và Hà Nội trong tháng Tư. Cùng tháng ấy, Trần Dần được thả, chủ yếu vì việc bắt giữ ông diễn ra mà không có sự chuẩn y của ban lãnh đạo cao cấp nhất trong Đảng, nhưng sự thay đổi trong không khí quốc tế rõ ràng đóng một phần vai trò trong việc thả Trần Dần. Diễn văn của Lục Định Nhất vào cuối tháng Năm cổ vũ Chính sách Trăm hoa nhanh chóng được các trí thức Việt Nam hăm hở đọc. Triết gia nổi tiếng Trần Đức Thảo, trưởng Khoa Sử của Đại học Sư phạm Hà Nội mới thành lập cùng năm ấy, nhanh chóng tìm người dịch nó trong tháng Bảy [11] .

Theo Bernard B. Fall, ban đầu Bắc Việt cố không chú ý tới sự cởi mở bất ngờ ở Trung Quốc, nhưng sự bỏ qua không thể tồn tại được lâu vì nhiều nhà văn có tiếng ở miền Bắc nắm bắt ngay khẩu hiệu của Trung Quốc. Với họ, khẩu hiệu Trung Quốc có cùng âm vọng như nền giáo dục cởi mở của Pháp mà họ từng thụ hưởng nhiều năm trước [12] . Hai cuộc họp quan trọng trong mùa Hè trở thành điểm tập hợp cho ý kiến phản kháng. Một là Hội nghị của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội từ cuối tháng Bảy đến đầu tháng Tám, và tại đó các đại biểu phê phán nặng nề nhiều chính sách của Đảng, từ việc thiếu thực phẩm đến thuế. Hai là hội nghị của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật miền Bắc (1-18 tháng Tám) với chừng ba trăm đại biểu, nhằm học tập Đại hội 20 của Liên Xô và chính sách văn hoá mới của Trung Quốc. Cuộc họp đưa ra năm đòi hỏi, trong đó có việc đòi dịch và công bố Chính sách Trăm hoa của Mao [13] .

Bị thúc ép trước các diễn biến này, và rộng lớn hơn là vì không khí hạ bệ Stalin và cởi mở trong thế giới cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chính sách mới với trí thức vào tháng Tám, nhấn mạnh đoàn kết, tin tưởng và hợp tác với trí thức chứ không nói đến cải tổ [14] . Vẫn theo thói tục học tập kinh nghiệm Trung Quốc, Việt Nam gửi đại diện sang Trung Quốc theo dõi phong trào Trăm hoa [15] . Vào tháng Mười, khi khủng hoảng Ba Lan – Hungary đang lên cao trào, sự xét lại chính sách của Bắc Việt chuyển sang giai đoạn mới mang tính chính trị hơn. Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp từ đầu tháng Chín và kéo dài đến cuối tháng Mười, rõ ràng là vì sức nặng của các vấn đề được thảo luận và chia rẽ trong Đảng. Cuối cùng, hôm 29-10, Đảng ra tuyên bố công khai thừa nhận các sai lầm trong chiến dịch cải cách ruộng đất và một số lĩnh vực khác. Trường Chinh, người giữ chức Tổng Bí thư suốt từ 1941 và đứng số hai sau Hồ Chí Minh, nhận trách nhiệm và từ chức, cùng với Thứ trưởng Nông lâm (Hồ Viết Thắng). Một chiến dịch sửa sai sau đó được tiến hành nhằm giảm bớt các đau khổ của người nông dân trong cải cách ruộng đất [16] . Đài phát thanh Hà Nội hôm 30-10 tường thuật về Hội nghị 10, nói rằng dân chủ hoá và cải thiện đời sống nhân dân nay là hai trọng tâm đầu tiên của Đảng, trong khi việc thống nhất đất nước, vốn vẫn là ưu tiên số một, thì chuyển xuống số ba [17] .

Những thay đổi lớn này tại Việt Nam và không khí chung ở Trung Quốc và Đông Âu cho phép các trí thức Việt Nam tận hưởng giai đoạn Nhân văn – Giai phẩm, một thời đoạn độc đáo của quá trình giải phóng trí thức từ tháng Tám đến tháng Mười Một năm 1956. Sự giải phóng được thể hiện bằng sự xuất hiện đột ngột tại các quầy báo nhiều ấn phẩm của tư nhân tập hợp các trí thức phản kháng. Trong số đó có hai ấn phẩm nhiều ảnh hưởng nhất mà tên được đặt cho giai đoạn này. Thứ nhất là Giai phẩm mùa XuânGiai phẩm mùa Thu, giới thiệu các văn phẩm mang nội dung chính trị. Thứ hai là Nhân văn, một tuần báo công khai nói chuyện chính trị. Trong văn cảnh Việt Nam, hai chữ Nhân văn còn phản ánh ý niệm Nho giáo về việc trở thành một người văn minh nhờ vào việc học văn chương và triết lý. Các thảo luận chính trị mà các ấn phẩm này khơi dậy bao quát nhiều chủ đề, từ các chính sách trí thức và văn hoá của Đảng cho đến cải cách ruộng đất, tệ quan liêu, tham nhũng, bất tài, và sự chính danh của “chính thể đảng trị”, như cách gọi của sinh viên [18] . Các thảo luận không giới hạn trong các bài báo và thư độc giả, mà còn lan ra đại học, trường học và thậm chí các buổi họp của Hội đồng Nhân dân Hà Nội và Mặt trận Tổ Quốc [19] .

Rõ ràng ta thấy có ảnh hưởng của Trung Quốc trong quá trình nới rộng tự do ở Việt Nam. Tất cả các ấn phẩm phản kháng đều hướng tới Trung Quốc như niềm cảm hứng. Như Kim Ninh chỉ ra, “Thực sự, Nhân văn theo sát các sự kiện ở Trung Quốc và Đông Âu, ủng hộ Chiến dịch Trăm hoa và xu hướng cởi mở ở Ba Lan và Hungary… Các cây bút của Nhân văn cảm thấy rõ rệt là họ đang tham gia một phong trào quốc tế rộng hơn…” [20] Ngoài ra, tên của một số tờ báo phản ánh sự liên hệ trực tiếp với Trung Quốc. Ví dụ ta có tạp chí Trăm hoa, trong khi cái tên Đất mới (một tạp chí của sinh viên đại học đã dùng từ “chính thể đảng trị” để chỉ chính phủ) ám chỉ vùng đất màu mỡ cho các loại hoa mới sinh sôi.

Các liên hệ cá nhân giữa các trí thức phản kháng với Trung Quốc cũng dễ thấy. Ví dụ, vào cao trào giải phóng, Phan Khôi, chủ biên của Nhân văn và là nhân vật nổi tiếng nhất của phong trào, có mặt ở Trung Quốc đại diện cho trí thức Việt Nam tại buổi lễ kỷ niệm 20 năm ngày mất của Lỗ Tấn [21] . Việc chọn Phan Khôi làm đại diện cho Việt Nam khó có thể nói là ngẫu nhiên, vì sự kiện kỷ niệm nhằm tôn vinh một trí thức nổi tiếng vì sự độc lập tư tưởng và Phan Khôi lại có tiếng là nhà bình luận độc lập. Có một chi tiết khiến sự đại diện của Phan Khôi ở Trung Quốc lại có thêm ý nghĩa. Một năm trước đó, khi chính phủ yêu cầu Phan Khôi phát biểu về cùng đề tài Lỗ Tấn nhân kỷ niệm ngày mất của nhà văn Trung Quốc, ông đã phải nộp bản thảo cho Hội Văn nghệ và sửa chữa bài viết dựa trên các nhận xét. Một năm sau, gần như cùng lúc khi ông sang Trung Quốc dự sự kiện quan trọng hơn về Lỗ Tấn, Phan Khôi viết bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” trên Nhân văn [22] than phiền về thiếu tự do sáng tạo ở Bắc Việt, nhắc lại câu chuyện một năm trước cùng nhiều ví dụ tương tự về sự can thiệp của chính quyền, và đặt câu hỏi, “Tôi còn làm ăn gì được nữa cụ ơi! Tôi còn là tôi đâu được nữa cụ ơi!” [23]

Nhưng liên hệ Trung Quốc trong trường hợp Việt Nam còn có thể được khảo sát từ một góc nhìn khác, dựa trên sự riêng biệt của quá trình nói rộng tự do ở Việt Nam. Sự nới rộng tự do ở Việt Nam có khác biệt bởi vì con đường của nó nhiều va vấp và ở một số chặng thì tương ứng với hoàn cảnh ở Trung Quốc. Để hiểu điều này, tôi cần tóm tắt quá trình mở rộng tự do ở Việt Nam.

Từ tháng Tám đến tháng 11-1956, phong trào trải qua thời điểm vàng son, giai đoạn Nhân văn – Giai phẩm. Rồi ngay sau khi Liên Xô đàn áp cuộc nổi dậy ở Hungary, chính phủ Liên Xô bắt đầu đánh lại trí thức bằng việc in các bình luận, xã luận và thậm chí “thư độc giả” lên án các phần tử chống chủ nghĩa xã hội. Như một xã luận của báo Nhân dân ở Việt Nam, xuất hiện năm ngày sau cuộc đàn áp, viết rằng: “Chúng ta không thể cho phép bất kỳ ai lợi dụng tự do dân chủ và tự do ngôn luận để tách rời nhân dân khỏi Đảng.” [24] Sau hơn một tháng chuẩn bị tuyên truyền như vậy, vào ngày 18-12, sau một nghị định của Chủ tịch nước, Ủy ban Hành chính Hà Nội cho ngưng phát hành Nhân văn Giai phẩm; đóng cửa nhà xuất bản Minh Đức; tịch thu các số báo cũ; và cảnh cáo những ai còn sở hữu và phân phối báo. Một chiến dịch báo chí nhanh chóng diễn ra để hạ uy tín hai ấn phẩm và người viết.

Việc cấm hai tờ báo và chiến dịch báo chí phê phán chúng là một trở ngại nghiệm trọng cho giới trí thức, nhưng cơn bão chính trị tháng 12-1956 qua đi nhanh đến bất ngờ. Chỉ hai tháng sau, Nhân dân ngừng chiến dịch phê phán Nhân văn – Giai phẩm, và toàn bộ những người bị nhắm đến trong chiến dịch đều an toàn, không ai bị bắt hay mất việc, mà họ chỉ phải tự kiểm thảo và một số bị giáng chức. Như Kim Ninh chỉ ra, các trí thức “tiếp tục giữ chỗ làm nhà nước và, trong một số trường hợp, họ duy trì cả vị trí lãnh đạo trong các nhà xuất bản quốc doanh và thậm chí trong Ban Chấp hành của Hội Văn học Nghệ thuật.” [25] Trong tháng Hai, Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần hai được triệu tập, và nghị quyết không nhắc gì tới vụ Nhân văn – Giai phẩm, mặc dù nó ghi nhận sự cần thiết chống lại “các khuynh hướng sai trái”. Đến tháng Năm, một tờ báo mới, tuần báo Văn, ra đời với tư cách là cơ quan chính thức của Hội Nhà văn vừa thành lập. Dưới ngọn cờ của tuần báo Văn, các cây bút của Nhân vănGiai phẩm nhanh chóng tụ họp lại. Honey chỉ ra, “Dù họ đã phải học tập những gì thì hoá ra tất cả đều vô ích, vì họ nhanh chóng tiếp tục sự công kích Hội Văn học Nghệ thuật, Đảng, chính thể, và mọi mục tiêu trước đó.” [26]

Nói cách khác, môi trường văn hoá tại miền Bắc Việt Nam phần lớn năm 1957 ít nhất cũng là nhẹ nhàng và dễ thở. Ngay từ khi ra mắt, báo Văn bị các tờ báo Đảng phê bình vì một số nội dung, nhưng sự chỉ trích chưa khi nào đưa tới một chiến dịch phối hợp lên án của báo chí, hay buộc các nhà văn phải im lặng. Hirohide Kurihara, trong nghiên cứu của ông về chính sách văn hoá Bắc Việt từ 1956 đến 1958, ghi nhận có hai đường lối “linh động” dẫn dắt tình hình trí thức trong năm 1957. Một “ngả về hướng tôn trọng sự chủ động của các nhà văn và trí thức… không có biện pháp cụ thể nào nhằm buộc người cầm bút tham gia học tập chính trị hay các hoạt động sản xuất”; đường lối thứ hai “mang tính ôn hoà nhằm đạt các mục tiêu chính sách, một cách tiếp cận nhấn mạnh vào việc đạt tới sự đồng thuận thông qua thuyết phục và thảo luận kiên nhẫn.” Khi thực hiện chính sách đồng thuận này, “những người nắm chính sách được cảnh báo không được hành động lỗ mãng.” [27]

Thời gian cởi trói tiếp theo này kéo dài được khoảng nửa năm và cuối cùng chấm dứt vào đầu 1958. Ngày 6-1, Bộ Chính trị ra “Nghị quyết Bộ Chính trị về công tác văn nghệ”, đòi trục xuất toàn bộ những “phần tử phá hoại” ra khỏi các tổ chức văn nghệ và yêu cầu văn nghệ sĩ học tập chủ nghĩa Marx–Lenin và tham gia lao động [28] . Theo sau nghị quyết là việc đình bản tuần báo Văn vô thời hạn và từ đây bắt đầu chiến dịch mạnh và lâu dài nhằm loại bỏ tận gốc mọi tiếng nói và thành phần đối kháng trong giới trí thức. Nhiều trí thức bị bắt và năm người trong số họ, tất cả gắn với vụ Nhân văn – Giai phẩm và do Phan Khôi đại diện, bị đưa ra xử và kết án vì “các hoạt động tâm lý chiến núp dưới bóng Nhân văn – Giai phẩm”. [29] Cùng lúc đó, đa số các trí thức, bất kể hoạt động chính trị của họ là gì trong giai đoạn Nhân văn – Giai phẩm, đã phải đi cải tạo dưới hình thức học tập chính trị sát sao và lao động nặng nhọc ở nông thôn và nhà máy – một hình thức vay mượn từ Trung Quốc.

Như thế, thời kì nới rộng tự do ở Việt Nam có hai giai đoạn nở rộ: từ tháng Tám đến tháng Mười Một 1956, và từ tháng Năm 1957 đến tháng Giêng 1958. Đối với các sử gia, những câu hỏi tự nhiên là: Tại sao chính phủ Việt Nam không nhân sự biến ở Hungary mà dập tắt các tiếng nói đối kháng trong nước bằng cách đẩy mạnh công cuộc đàn áp đã bắt đầu với việc cấm báoNhân vănGiai phẩm hồi tháng 12-1956? Tại sao nhà nước vẫn cho phép giới trí thức tiếp tục sự công kích chính thể vào mùa hè 1957?

Điều khiến các câu hỏi này càng thêm kích thích sự tò mò là có một sự kiện đã có thể tạo nên môi trường thuận lợi hơn cho chính quyền thẳng tay đàn áp trí thức vào thời điểm cấm báoNhân vănGiai phẩm. Sự kiện đó là cuộc nổi loạn của nông dân ở tỉnh Nghệ An chống lại chính sách cải cách ruộng đất. Nỗi bức bối của người nông dân vì cải cách ruộng đất đã chất chồng mấy năm, và việc Đảng công khai thừa nhận các sai lầm trầm trọng trong chiến dịch, được Trường Chinh thông báo (ông này sau đó từ chức Tổng Bí thư để xoa dịu sự bất bình), chỉ cung cấp thêm cho nông dân cơ hội bày tỏ phẫn uất. Cuộc nổi dậy bắt đầu từ ngày 5-11 và có đến hơn 20.000 nông dân tham gia. Nó kéo dài khoảng một tuần và bị một đơn vị đặc biệt của quân đội Bắc Việt dập tắt. Sự kiện này làm lung lay tận gốc sự tự tin của chính thể trong việc cai trị nông thôn – đặc biệt vì tỉnh Nghệ An là quê ông Hồ Chí Minh và căn cứ đầu tiên của cách mạng Việt Nam – và nó là sự biến rất đẫm máu trong thời kì hạ bệ Stalin, có lẽ chỉ kém các cuộc nổi dậy ở Ba Lan và Hungary. Nhưng, thật không may là nó chưa được chú ý đầy đủ trong các nghiên cứu về vấn đề hạ bệ Stalin từ góc nhìn toàn cầu. Cuộc nổi dậy là một đe doạ lớn cho chính thể, và sẽ không ngạc nhiên nếu chính quyền siết chặt các chính sách chung ở trong nước để dập tắt mọi dấu hiệu của xu hướng nổi loạn trong dân sau vụ đàn áp nổi dậy này. Nhưng trên thực tế sự đàn áp trí thức – sau khi cuộc nổi dậy nông dân bị dập tắt – đã diễn ra ngắn ngủi, nhẹ nhàng và thậm chí tiếp theo sau ta thấy quá trình trả lại tự do cho văn nghệ sĩ còn được phục hồi.

Mặc dù tôi không tìm cách loại bỏ mọi khả năng giải thích quá trình nới rộng tự do lúc lỏng lúc chặt ở Việt Nam, nhưng việc xem xét mối liên quan Trung Quốc có thể cung cấp ít đầu mối. Do ảnh hưởng nặng của Trung Quốc ở Việt Nam và quan hệ thân mật giữa hai đảng, và do thời kì nới rộng tự do ở Việt Nam lấy cảm hứng từ mô hình Trung Quốc, sẽ vô lý nếu cho rằng ban lãnh đạo Việt Nam đã tự ý tạm ngừng đàn áp vào đầu năm 1957 mà không theo dõi thái độ của Trung Quốc. Vào mùa Xuân 1957, khi môi trường ở Việt Nam một lần nữa trở nên thuận lợi cho sự mở rộng tự do dân chủ, đó là lúc ban lãnh đạo Trung Quốc mở chiến dịch “chỉnh phong” quy mô cả nước để lấy ý kiến phê bình của trí thức đối với Đảng. Giới trí thức Bắc Việt tái tục sự công kích chính thể vào đầu mùa Hè, chính vào thời điểm phong trào chỉnh huấn ở Trung Quốc đạt cao điểm và đa số những người phái hữu đang để lộ mình khi công khai chỉ trích Đảng và đòi cải cách.

Nhưng vào ngày 8-7-1957, chiến dịch chống phái hữu bắt đầu ở Trung Quốc. Cũng chính vào ngày ấy, vô tình hay hữu ý, ông Hồ Chí Minh ghé Bắc Kinh trên đường đi Bắc Hàn, Liên Xô và Đông Âu. Trên đường quay về Việt Nam, vào cuối tháng Tám, ông Hồ một lần nữa ghé thăm Trung Quốc và gặp các lãnh đạo Trung Quốc lúc ấy đang bận rộn với chiến dịch chống phái hữu. Về mặt chính thức, ưu tiên của ông Hồ là được Trung Quốc ủng hộ lời kêu gọi của ông nhằm mở một hội nghị tham vấn về việc thống nhất đất nước thông qua tổng tuyển cử tự do[30] . Nhưng đằng sau đó họ còn bàn bạc chuyện gì? Họ có bàn về chiến dịch đang diễn ra ở Trung Quốc và những thách thức mà giới trí thức Việt Nam đặt ra cho Đảng của ông Hồ? Mặc dù không có tư liệu nào có thể cung cấp thêm thông tin, nhưng có một điều chắc chắn: ông Hồ hẳn bị ấn tượng mạnh về chiến dịch và ý định thật cũng như chiến lược của Mao nhằm buộc kẻ thù lộ mình. Ông Hồ giỏi tiếng Hoa (ông từng làm thông dịch viên cho các phái viên Liên Xô và những người cộng sản Trung Quốc trong thập niên 1920), và có thể tự mình đọc báo tiếng Hoa. Các tờ báo Trung Quốc lúc ấy tràn ngập các bài chống phái hữu và các phương pháp dùng để trấn áp, như vậy làm sao tất cả những điều này lại không được ông Hồ chú ý cơ chứ? [31] Một bằng chứng cho ảnh hưởng của Trung Quốc là khoảng hai tuần sau khi trở về nước, ông Hồ, dùng bút danh Trần Lực, đã đăng một bài trên Nhân dân ngày 16-9 với tựa đề “Đập tan tư tưởng hữu khuynh”. Theo Boudarel, bài báo dường như in đậm dấu ấn chiến dịch đang diễn ra ở Trung Quốc. Cách ông Hồ tiếp cận vấn đề cũng tương tự như cách nói ẩn dụ của Mao. Ông viết, “Tư tưởng hữu khuynh như cỏ độc. Hãy nhổ cỏ và biến chúng thành phân để làm đồng lúa được màu mỡ.” [32]

Điều đáng nói là ít tác giả nào chú ý đầy đủ đến các ảnh hưởng quốc tế đối với lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1957-1958, theo nghĩa là liên kết những thay đổi trong nước với những diễn biến cụ thể trong phong trào cộng sản quốc tế. Tuy nhiên có một ngoại lệ là tác giả Kurihara. Kurihara nhấn mạnh những thay đổi tạo ra bởi Hội nghị Moskva của các đảng cộng sản thế giới tháng 11-1957, mà trong đó Trung Quốc đóng vai trò lớn trong việc hợp tác với Liên Xô để lên án “khuynh hướng xét lại”, ám chỉ nguy hiểm từ cánh hữu. Vì thế, đối với Bắc Việt, tình hình quốc tế cuối năm 1957 và đầu 1958 rất khác giai đoạn trước đó. Như Kurihara chỉ ra, “Cả Liên Xô, nước gây cảm hứng cho Nhân văn – Giai phẩm nhờ sự lên án Stalin, và Trung Quốc, nước cũng gây cảm hứng nhờ chính sách ‘Trăm hoa’, đã ký vào Tuyên bố, tức là bày tỏ ủng hộ cho cuộc đấu tranh chống xét lại. Ngoài ra, chính sách ‘Trăm hoa’ đã biến thành chiến dịch chống phái hữu ở Trung Quốc.” [33]

Khi Nhân vănGiai phẩm bị cấm, một vài nhà quan sát phương Tây đặt giả thiết rằng các ấn phẩm là “các quả bóng nhử, được thả với sự ngầm chuẩn thuận của chính phủ” và rằng “thí nghiệm rõ ràng đang đi đến điểm kết thúc.” [34] Nếu nhận xét đó đúng, hẳn Hồ Chí Minh cảm thấy nhẹ nhõm khi ông ở Trung Quốc chứng kiến chiến dịch chống phái hữu quyết liệt và thán phục chiến thuật của Mao. Bốn tháng sau, ông Hồ bắt đầu lại cuộc tấn công giới trí thức bằng cách đi theo mô hình Trung Quốc, một mô hình mà hẳn ông đã cân nhắc trong lúc ở lại Trung Quốc: bóc trần tư tưởng chống chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, bằng việc đăng những lời “thú tội” của họ trên báo, tổ chức các cuộc họp tập thể mà ở đó những người bị tố cáo phải tự phê hoặc lên án chính mình, sa thải và bỏ tù nhiều người, trục xuất nhiều người khỏi các hội nghề nghiệp, và gửi hàng trăm, hàng ngàn người xuống các vùng nông thôn, nhà máy để cải tạo thông qua lao động nặng nhọc.

Toàn bộ những chương và diễn biến song song này, khi đặt chúng cạnh nhau, rõ ràng chứng tỏ ảnh hưởng mạnh của Trung Quốc trong phong trào nới rộng tự do ở Việt Nam ngay từ năm 1955 cho tới 1958. Giống như tại Đông Âu, sự liên hệ với Trung Quốc đã tạo cảm hứng ban đầu cho giới trí thức, khiến họ duy trì quan điểm ngay cả sau khi Liên Xô đàn áp cách mạng Hungary. Nhưng rốt cuộc sự liên hệ với Trung Quốc trở thành cú đánh cuối cùng, bất ngờ và có lẽ nặng nề nhất cho phong trào nới rộng tự do dân chủ.

Kết luận

Phong trào hạ bệ Stalin và mở rộng tự do ở giữa thập niên 1950 là một hiện tượng của chủ nghĩa cộng sản toàn cầu và cần được xem xét từ góc nhìn toàn cầu. Góc nhìn này có thể cho phép ta xem xét nhiều nguồn tư liệu của nhiều nước cộng sản đóng góp vào hiện tượng này và những tương tác phức tạp dính dáng đến các nước liên quan, thay vì chỉ nhìn hiện tượng từ góc nhìn lấy Moskva làm trung tâm.

Là một ví dụ của cái nhìn toàn cầu này, những liên hệ với Trung Quốc, thể hiện trong trường hợp Đông Âu và Việt Nam, có thể giúp mở rộng viễn kiến của chúng ta nhờ việc đặt quá trình giải ảo Stalin trong một văn cảnh rộng hơn. Đầu tiên, Trung Quốc đã đóng góp vào thay đổi chính trị với những nỗ lực của riêng mình và hành động như một nguồn độc lập trước Moskva trước Đại hội 20 của Liên Xô, chứ không phải là một nước ở vị trí ngoài rìa và phản ứng thụ động, và Trung Quốc còn tiếp tục xác lập ảnh hưởng cả sau khi cuộc nổi loạn Hungary bị đàn áp, khi mà không khí ở Đông Âu rõ ràng không thuận lợi cho một ảnh hưởng như vậy. Ảnh hưởng của Trung Quốc không chỉ có trong những nhân vật cải tổ Đông Âu, mà còn tạo nên hiệu ứng gây lo ngại ở Moskva, như chính Khrushchev thừa nhận. Thứ hai, khi liên kết trường hợp Việt Nam với Trung Quốc, ta có thể thấy có sự tồn tại của một mô thức phản kháng và phản đối trong thời kì hậu Stalin – một mô thức châu Á, chủ yếu thể hiện qua phản đối bằng ngôn từ của trí thức chứ không phải là những cuộc xuống đường của quần chúng hay thậm chí nổi loạn, mặc dù Việt Nam cũng có một cuộc nổi loạn nông dân ngắn ngủi và Trung Quốc chứng kiến một vài cuộc biểu tình của sinh viên và công nhân. Mô thức phản kháng và phản đối châu Á có vẻ khác với mô thức Ba Lan – Hungary, mà ở đó sự phản đối của trí thức ban đầu quan trọng nhưng sau đó bị làm lu mờ bởi hành động bạo lực của quần chúng. Thứ ba, mối liên hệ Trung Quốc và ảnh hưởng Trung Quốc đối với quá trình giải ảo Stalin có tính hai mặt. Một mặt, Trung Quốc tán đồng – dù cố ý hay không – sự giải phóng ở Đông Âu và Việt Nam, và sự tán đồng này là một phần quan trọng trong việc hạ bệ Stalin mà Moskva phát động. Nhưng mặt khác, ngược với niềm tin ngây thơ của nhiều nhân vật cải cách và trí thức Đông Âu và Việt Nam, Mao và ban lãnh đạo Trung Quốc chưa bao giờ thực sự tin vào dân chủ và tự do. Họ không chần chừ bộc lộ phản ứng cứng rắn trước thách thức sự cai trị của Đảng Cộng sản trong trường hợp Hungary, nhưng phải mất một năm trước khi nhiều người ở Đông Âu, Việt Nam và Trung Quốc nhận ra điều này. Dù ý định ban đầu của những người cộng sản Trung Quốc có là gì (khi họ cổ vũ cho Chính sách Trăm hoa và Chỉnh huấn), cuối cùng thì họ chấm dứt phong trào giải phóng từng nảy nở bằng cách dùng biện pháp khác với cách đàn áp cách mạng Hungary của Liên Xô, nhưng có tính toán hơn và có lẽ tiêu cực hơn [35] . Vì thế, nếu Trung Quốc đã đóng góp vào phong trào giải phỏng và tác động đến các nước cộng sản khác theo cách riêng của mình, thì nước này cũng đóng góp vào sự đàn áp phong trào giải phóng theo cách riêng của mình.

Bản tiếng Việt © 2008 talawas

————-

[1]Hoàng Văn Hoan, My Memoir (Beijing: People’s Liberation Army Press, 1987), trang 277

[2]Như Phong, “Intellectuals, Writers and Artists”, trong North Vietnam Today, P. J. Honey chủ biên (New York: Praeger, 1962), trang 81

[3]Kim N. B. Ninh, A World Transformed: The Politics of Culture in Revolutionary Vietnam 1945–1965 (Ann Arbor: University of Michigan Press, 2002), trang 130–131

[4]Để đọc một mô tả chi tiết về một trong các ví dụ “tan băng” ở Đông Âu, xem bài “Poland’s Literary ‘Thaw’: Dialectical Phase or Genuine Freedom?” của Magnus J. Krynske, in trong The Polish Review, mùa Thu 1956, trang 8–21.

[5]Georges Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s: The Nhan-Van Giai-Pham Affair,” in trong The Vietnam Forum, do O. W. Wolters chủ biên (New Heaven, Conn.: Yale Southeast Asia Studies, 1990), 13: 158

[6]Gong Yuzhi, Mao Zedong’s Reading Life (Shanghai: Shanghai People’s Publisher, 1997), trang 493

[7]Lục Định Nhất, “Cái nhìn lịch sử về ‘Bách hoa tề phóng, Bách gia tranh minh,” Guangming Daily, 7-5-1986

[8]Xem Ninh, A World Transformed, chương 4, trang 121–161, nói về sự phản kháng của trí thức.

[9]Như trên, trang 140

[10]Như trên. Bài về Nhân văn – Giai phẩm của Boudarel cũng có tư liệu về liên hệ giữa Hồ Phong và Trần Dần.

[11]Shawn McHale, “Vietnamese Marxism, Dissent, and the Politics of Postcolonial Memory: Tran Duc Thao, 1946–1993”, Journal of Asian Studies 61.1 (2002): 14

[12]Bernard B. Fall, The Two Vietnams – A Political and Military Analysis (New York: Praeger, 1967), trang 188

[13]P. J. Honey, “Ho Chi Minh and the Intellectuals”, trong cuốn Vietnam: Anatomy of a Conflict, R. Fishel Wesley chủ biên (Itasca, Ill.: Peacock Publishers, 1968), trang 160

[14]Các chính sách mới này là: “1) Đoàn kết giới trí thức và động viên toàn bộ lực lượng trí thức cho nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới; 2) Sử dụng trí thức theo khả năng và giao cho họ công tác phù hợp trên nguyên tắc chức vụ và quyền lực được phân phối theo khả năng và đạo đức; 3) Bảo đảm cho trí thức có phương tiện cần thiết để làm việc, tặng thưởng cống hiến theo khả năng của đất nước; 4) Giúp các thế hệ trí thức lớn tuổi học tập ý thức hệ cách mạng, đào tạo thế hệ trí thức mới, không ngừng nâng cao hiểu biết của trí thức và mở rộng hàng ngũ.” Robert F. Turner, Vietnamese Communism (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1975), trang 152.

[15]Edward Friedman, “The Revolution in Hungary and the Hundred Flowers Period in China”, Journal of Asian Studies, 35.1 (1965): 122

[16]Chiến dịch “sửa sai” cải cách ruộng đất cũng chứng tỏ có ảnh hưởng Trung Quốc. Theo Hoàng Văn Hoan (Hồi ký, bản dịch tiếng Anh, trang 285), Chu Ân Lai rất lo ngại về vai trò của cố vấn Trung Quốc trong cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam. Sau khi Hoan đi họp ở phiên Toàn thế thứ Mười và quay lại Bắc Kinh, Chu Ân Lai gọi ông ta đến và hỏi rằng cố vấn Trung Quốc chịu bao nhiêu phần trách nhiệm cho những sai lầm trong cải cách ruộng đất của Việt Nam. Hoan trả lời rằng kinh nghiệm Trung Quốc tốt lắm, và mọi biện pháp quá khích đều là do cán bộ Việt Nam quyết định cả – dĩ nhiên nhận xét này không được các sử gia cho là chính xác.

[17]Ang Cheng Guan, Vietnamese Communists’ Relations with China and the Second Indo – Chinese Conflict (Jefferson, N.C.: McFarland & Company, 1997), trang 36

[18]Ninh, A World Transformed, trang 146

[19]Honey, “Ho Chi Minh and the Intellectuals”, trang 161

[20]Ninh, A World Transformed, trang 144.

[21]Uy tín của Phan Khôi một phần là nhờ gốc gác gia đình. Cha của ông là tổng đốc Hà Nội, người đã tự sát khi quân Pháp chiếm đóng năm 1883. Phan Khôi trải qua phong trào chống Pháp của giới sĩ phu năm 1907 và trở thành nhân vật đứng đầu giới trí thức. Ông ủng hộ phong trào cộng sản Việt Nam vì sức hút dân tộc và dân chủ trong cuối thập niên 1940 và đầu 1950. Con trai ông cũng tham gia cách mạng cộng sản và trở thành biên tập viên của một tờ báo thuộc Mặt trận Tổ quốc, nhưng đã tự sát vào năm 1958, sau khi phong trào nới rộng tự do bị dập tắt và Phan Khôi cũng qua đời. (Ghi chú của talawas: 1. Trong bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” nêu trên, câu “Tôi còn làm ăn được gì nữa cụ ơi! Tôi còn là tôi đâu được nữa cụ ơi” của Phan Khôi là hướng đến cụ Đồ Chiểu. 2. Phan Khôi là cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu.)

[22]Bài viết này của Phan Khôi đăng trong Giai phẩm mùa Thu tập I (Ghi chú của taalwas)

[23]Turner, Vietnamese Communism, trang 153

[24]Như trên, trang 157

[25]Như trên, trang 155

[26]Honey, “Ho Chi Minh and the Intellectuals”, trang 163

[27]Hirohide Kurihara, “Changes in the Literary Policy of the Vietnamese Workers’Party, 1956–1958”, trong cuốn Indochina in the 1940s and 1950s, Takashi Shiraishi và Motoo Furuta chủ biên (Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1992), trang 180

[28]Như trên, trang 183

[29]Ghi chú của talawas: Trong phiên toà xử “Vụ gián điệp Nguyễn Hữu Đang và Thuỵ An” ngày 19.1.1960 tại Toà án Nhân dân Hà Nội, năm người bị kết án là Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thị Yến tức Thuỵ An, Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, Phan Tại và Lê Nguyên Chí. Lúc này Phan Khôi đã qua đời.

[30]Ang Cheng Guan, Vietnamese Communists’ Relations with China, the Second Indo-Chinese Conflict (Jefferson, N.C.: McFarland & Company, 1997), trang 58

[31]Một tình tiết, mặc dù xảy ra sau đó khá lâu, có thể xem là ví dụ chứng tỏ ông Hồ giỏi tiếng Hoa và dùng nó để tìm hiểu chính trị Trung Quốc. Tháng Năm 1966, khi ông Hồ ở Trung Quốc, ông gặp Mao tại Hàng Châu và theo lời khuyên của Mao, đã đến Đại học Triết Giang để đọc các “bích chương đại tự” để biết về Cách mạng Văn hoá đang diễn ra. Dẫn theo Wen Zhuang, “Ba cuộc gặp giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh, 1965-1966), Zhong Heng, tháng Tám 2003, trang 12–13.

[32]Boudarel, “The Nhan-Van Giai-Pham Affair,” trang 170–171

[33]Kurihara, “Changes in the Literary Policy”, trang 189.

[34]“In China’s Shadow: The Ho Chi Minh Way,” The Economist, 5-1-1957, trang 41. Bài báo được viết bởi đặc phái viên của tạp chí.

[35]Một ví dụ ở một số nước Đông Âu, đặc biệt là Ba Lan và Hungary, là ban lãnh đạo thời kì sau 1956 đã có vài nhượng bộ trước đòi hỏi cải tổ kinh tế, và được sự đồng ý của Moskva. Sự đối xử với trí thức nói chung có cải thiện. Nhưng tại Trung Quốc và Việt Nam, cuộc đàn áp 1957-1958 đã loại bỏ thành phần cải tổ và những cải cách kinh tế đã không tái xuất hiện cho mãi tới đầu thập niên 1980, và giới trí thức đã chịu khổ trong Cách mạng Văn hoá còn hơn là thời kì những năm 1950.
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”620″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]