Cuộc chiến chống lại tự do báo chí của Điện Kremlin

russia-press

Nguồn: Nadezda Azhgikhina, “The Kremlin’s War on Liberalism,” Project Syndicate, 17/10/2016.

Biên dịch: Lâm Minh Đạt | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Sau các cuộc tấn công khủng bố 11 tháng 9 ở Mỹ, cái gọi là “cuộc chiến chống khủng bố” được phát động. Nhưng những cuộc xâm lược quân sự do Mỹ dẫn đầu ở Afghanistan và Iraq chỉ là một phần của câu chuyện; nhiều nước cũng đẩy mạnh việc giám sát và theo dõi truyền thông trong nước và dân thường. Các chính phủ tuyên bố rằng tự do ngôn luận và quyền riêng tư cá nhân phải được hạn chế vì lợi ích an ninh quốc gia.

Thiệt hại thể hiện đặc biệt rõ ở Nga, nơi các quy định chống khủng bố thường được sử dụng như một công cụ để bóp nghẹt tiếng nói của những người có quan điểm độc lập hoặc khác biệt, đặc biệt là những quan điểm chỉ trích chính quyền Tổng thống Vladimir Putin. Bằng cách lấy an ninh làm cái cớ để coi thường đạo luật truyền thông của Nga, trong đó có việc bảo vệ các nhà báo khỏi kiểm duyệt, chính phủ đã làm suy yếu đáng kể ngành báo chí.

Đạo luật đó dựa trên luật pháp châu Âu và quốc tế, và thể hiện sự chiến thắng của dân chủ ở Nga. Nhưng sự toàn vẹn của nó đã dần bị xói mòn bởi những sửa đổi làm hạn chế tự do ngôn luận và khả năng tác nghiệp mà không bị cản trở của các nhà báo, và bằng cách áp dụng không đồng đều những quy định hiện hành.

Hãy xem xét “đạo luật về chống các hoạt động cực đoan,” thứ hạn chế các quyền tự do ngôn luận, hội họp, và lập hội. Được ban hành năm 2012, trong bối cảnh biểu tình chống bầu cử gian lận nổ ra toàn quốc, nó được dùng thường xuyên nhất để chống lại các nhà báo và blogger.

Galina Arapova, giám đốc Trung tâm Bảo vệ Truyền thông Đại chúng (cũng từng bị nhắm đến), nhận xét rằng đạo luật này có thể được áp dụng bất cứ khi nào sự chỉ trích nhắm vào toàn bộ các nhóm hoặc hệ thống. Điều này nhấn mạnh vấn đề cốt lõi của các đạo luật chống chủ nghĩa cực đoan: “chủ nghĩa cực đoan” là một thuật ngữ quá rộng để đảm bảo các đạo luật như vậy thật sự được dùng để phòng chống các cuộc tấn công khủng bố.

Sự mơ hồ tương tự cũng xuất hiện quanh các thuật ngữ khác có liên quan, như “phỉ báng” và “ngôn ngữ kích động hận thù.” Phỉ báng – được định nghĩa với những mô tả rộng hơn như “bôi nhọ” và “gây thiệt hại cho danh tiếng” – một lần nữa được xem là hành vi tội phạm vào năm 2012, với quy định chỉ rõ rằng “phỉ báng thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, và các quan chức thực thi pháp luật” là hành vi phải chịu hình phạt nghiêm khắc.

Những đạo luật như vậy khiến việc điều tra tham nhũng của các quan chức trở nên khó khăn hơn nhiều đối với các nhà báo độc lập, những người thường bị các quản lý cấp cao và quan chức nhà nước đưa ra tòa chỉ đơn giản vì đã đưa tin về lối sống xa hoa của họ.

Nhưng trong những năm gần đây, sự phổ biến của các vụ kiện phỉ báng đã giảm, trái ngược với sự tăng lên những cáo buộc về tội cực đoan và kích động hận thù. Bây giờ, việc đào sâu vào tham nhũng của cảnh sát địa phương tương đương với việc kích động hận thù chống lại “nhóm xã hội” (cảnh sát) đó, và các “chuyên gia” ngôn ngữ học cũng cho thấy các nhà báo đã “kích động hận thù” chống lại các nhân viên chính quyền, thẩm phán, và các cơ quan khác của địa phương.

Đôi khi, những đạo luật như vậy có thể được áp dụng theo những cách thức vô cùng kỳ lạ, chỉ để cản trở hoạt động của truyền thông tin tức. Ví dụ, một tờ báo có thể bị cáo buộc truyền bá hận thù và bị đưa ra tòa vì đăng ảnh cờ Đức Quốc xã cùng một bài báo về Thế chiến II.

Và số lượng các điều luật đang ngày càng tăng lên. Trong những thập niên gần đây, hơn 20 đạo luật và quy định mới về truyền thông đã được đưa ra, hầu hết đều mang tính hạn chế (tự do báo chí). Những biện pháp này không chỉ giới hạn những chủ đề mà các nhà báo có thể điều tra một cách an toàn, mà còn hạn chế việc tài trợ cho truyền thông độc lập, bằng cách áp đặt giới hạn lên đầu tư và quảng cáo của nước ngoài. Những đạo luật như vậy đã khiến nhiều tổ chức truyền thông phải chuyển toàn bộ hoạt động lên mạng, hoặc đóng cửa hoàn toàn.

Truyền thông truyền thống không phải là nạn nhân duy nhất. Để đối phó với các ấn phẩm trực tuyến, bao gồm blog, Nga đã áp đặt các quy định mới về việc sử dụng Internet. Bất kỳ trang web nào có hơn 3.000 người truy cập mỗi ngày – một con số không quá cao – đều được coi là một “kênh truyền thông” và do đó phải tuân thủ những đạo luật hạn chế. Hơn nữa, các blogger không còn có thể ẩn danh, và truyền thông trực tuyến có thể bị cấm mà không cần cảnh báo.

Cái gọi là “đạo luật Yarovaya,” được Putin ký mùa hè năm ngoái, đã đưa sự đàn áp này đi xa hơn. Bên cạnh những quy định khác, nó buộc các nhà cung cấp mạng điện thoại và Internet phải lưu giữ hồ sơ của mọi thông tin liên lạc trong sáu tháng và mọi siêu dữ liệu (metadata) trong ba năm; họ cũng phải giúp các cơ quan tình báo giải mã các thông điệp được mã hóa. Và nó cũng áp đặt những hình phạt khắc nghiệt hơn đối với “chủ nghĩa cực đoan” (thực chất: phê bình) và “gây rối quần chúng” (thực chất: biểu tình).

Một điều luật hiếm khi được áp dụng là điều 144 bộ luật hình sự, nhằm bảo vệ các nhà báo khỏi sự sách nhiễu và các hành động khác gây cản trở “các hoạt động chuyên môn hợp pháp” của họ. Kết quả là, theo Glasnost Defense Foundation, các quyền của nhà báo bị xâm phạm hàng chục lần mỗi tháng ở Nga.

Các nhà báo phải đối mặt với đe dọa, tấn công, thiệt hại thiết bị tác nghiệp, các khoản tiền phạt không công bằng, bị sa thải, cấm đoán, và các hình thức kiểm duyệt khác, thường là ngay sau khi xuất bản một số ý kiến chỉ trích chính quyền địa phương, cơ quan thực thi pháp luật, hoặc các doanh nhân giàu có. Biết rằng tiến hành các biện pháp pháp lý chống lại chính quyền hoặc những người có ảnh hưởng đã đe doạ mình sẽ không đem lại kết quả, nhiều nhà báo đã tự kiểm duyệt.

Cuộc tấn công của chính phủ Nga lên truyền thông độc lập gần như đã cấm đoán mọi phân tích sâu và tin tức điều tra vốn cần thiết cho một nền dân chủ hoạt động. Vậy nhưng bất cứ sự phản đối nào cũng đều yếu ớt; trên thực tế, có rất ít người thảo luận về sự đàn áp. Và điều đó, suy cho cùng, chính là mấu chốt: thiếu sự tham gia của công chúng – không kể đến sự thiếu hợp tác và đoàn kết nghề nghiệp giữa các nhà báo – đồng nghĩa với việc chính quyền Nga có thể dễ thở hơn.

Nadezda Azhgikhina là phó chủ tịch Liên đoàn Nhà báo châu Âu (EFJ) tại Nga.

Copyright: Project Syndicate 2016 – The Kremlin’s War on Liberalism
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]