Sai lầm lịch sử của Châu Âu đối với Đế chế Ottoman

Print Friendly, PDF & Email

Nguồn: The Ottoman caliphs: Why European Islam’s current problems might reflect a 100-year-old mistake”, The Economist, 26/07/2016.

Biên dịch: Trương Dũng Thuyết | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Động thái của châu Âu nhằm làm suy yếu vị Caliph Ottoman đã chuyển dịch trung tâm ảnh hưởng của thần học.

Mỗi khi một thành phố châu Âu bị rung chuyển bởi một hành động bạo lực nhằm vào số đông quần chúng, các tờ báo quan trọng có ảnh hưởng của châu lục này lại chủ trì những cuộc tranh luận kịch liệt về những sai lầm đã xảy ra. Đặc biệt, những người tranh luận thường hỏi, liệu các quốc gia Châu Âu có nên phản ứng khác đi trước sự nổi lên của những nhóm thiểu số Hồi giáo lớn và bất mãn, bằng cách chấp nhận sự khác biệt về văn hoá một cách bao dung hơn hoặc (như một số người biện hộ) bằng cách đàn áp họ? Ngay cả khi rõ ràng Hồi giáo không thực sự là một nguyên nhân (như trường hợp vụ thảm sát tuần trước bởi một thanh niên trẻ không thích ứng được với môi trường sống ở Munich), các cuộc thảo luận vẫn tiếp tục.

Một trong những chuyên gia hàng đầu của Mỹ về Hồi giáo châu Âu đã có một đóng góp khá sâu sắc và khác thường cho cuộc thảo luận này. Viết trên tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung để đáp lại một bài viết khẳng định rằng “chủ nghĩa khủng bố có nhiều liên quan đến đạo Hồi”, Jonathan Laurence lập luận rằng các biến cố hiện nay của Hồi giáo châu Âu là một loại dư chấn xuất phát từ một sai lầm thế kỷ. Hay đúng hơn là xuất phát từ các chính sách thiển cận đã được thúc đẩy chính xác cách đây 100 năm. Vào mùa hè năm 1916, chính phủ Anh và các đồng minh chiến tranh của họ bắt đầu xúi giục một cuộc nổi dậy trong thế giới Ả Rập để chống lại quyền lực chính trị và trên hết là quyền lực tinh thần của Đế chế Ottoman. Điều này dẫn đến sự chiếm đóng Jerusalem của Anh và làm sụp đổ sự thống trị của Ottoman đối với những nơi linh thiêng nhất của đạo Hồi, cho dù ở khu vực Levant hay bán đảo Ả Rập. Để thay thế cho quyền thống trị của Đế chế Ottoman đối với người Ả Rập, người Anh ban đầu đã ủng hộ triều Hashemite vốn lúc đó vẫn còn đang cai trị Jordan; nhưng người hưởng lợi cuối cùng lại là nhà Saud, những người đã chiếm Mecca và Medina vào năm 1924.

Theo quan điểm của Laurence, Giáo sư tại Đại học Boston, điều này đã chấm dứt khoảng thời gian vài thập kỷ, trong đó caliph (một vai trò tinh thần mà cho đến năm 1922 người Ottoman đã kết hợp với quyền lực thế tục của vị trí quốc vương Hồi giáo, hay sultan) ảnh hưởng đến Hồi giáo toàn cầu một cách tương đối tích cực. Không chỉ trong lãnh thổ Đế chế Ottoman mà còn xa hơn nữa, vị caliph này đã lãnh đạo một mạng lưới toàn cầu những giáo viên, giáo sĩ và thẩm phán. Như Halil Inalcιk, một nhà sử học Ottoman qua đời tuần này ở tuổi 100, đã chỉ ra, quyền lực thực sự của các vị sultan-caliph này đã biến đổi rất nhiều theo thời gian, một số đã có thể kiểm soát được các ulema, hay các học giả tôn giáo, những người khác thì không. Nhưng vai trò tinh thần toàn cầu của vị trí này đặc biệt quan trọng vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cuối cùng đã tác động đến hơn 100 triệu người Hồi giáo sống dưới sự cai trị của Anh (ở Nam Á) và Hà Lan (ở Indonesia hiện nay). Như Mustafa Akyol, một nhà văn người Thổ Nhĩ Kỳ chuyên viết về tôn giáo, đã chỉ ra, ảnh hưởng của vị caliph Ottoman đối với người Hồi giáo ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có những ảnh hưởng tích cực đối với Hoa Kỳ; Abdulhamid II (trong hình), vị sultan trị vì lâu dài cuối cùng, đã giúp thuyết phục người Hồi giáo Philippines chấp nhận quyền lực của Mỹ tại nước này. (Những dân tộc khác có những ký ức đen tối hơn về vị chúa tể tối cao đó, người Armenia cho rằng ông ta chịu trách nhiệm về việc thảm sát hàng chục nghìn người dân nước này vào năm 1895).

Tuy nhiên, chính bởi vì các vị caliph Ottoman rất có sức hút đối với một số thần dân của họ, các cường quốc châu Âu đã rất cố gắng để làm suy yếu vị trí này. Ít nhất là từ 1870, các nhà ngoại giao Anh đã cố gắng chuyển trọng tâm Hồi giáo toàn cầu từ người Thổ sang người Ả Rập. Người Hà Lan cố gắng ngăn dân Hồi giáo của họ suy tôn vị caliph trong các lời cầu nguyện công khai của họ. Với phần nào thành công hơn, người Pháp đã thúc đẩy các trung tâm quyền lực tinh thần thay thế cho người Hồi giáo mà họ cai trị ở Algeria và Ma-rốc. Chừng nào Đế chế Ottoman còn duy trì quyền kiểm soát Libya (cho đến năm 1912), thì vị caliph của họ vẫn giữ được một phần ảnh hưởng ở Bắc Phi. Nhưng khi các lãnh đạo theo chủ nghĩa quốc gia thế tục mới của Thổ Nhĩ Kỳ cuối cùng đã hủy bỏ vị trí caliph năm 1924, nhiệm vụ của họ đã trở nên dễ dàng hơn bởi thực tế là các cường quốc châu Âu đã phá hoại vị thế linh thiêng của các caliph trong nhiều thập kỷ.

Theo cách nhìn của Laurence, việc xóa bỏ vị trí caliph cũ đã tạo ra một khoảng trống đã được lấp đầy trong thế kỷ tiếp theo bởi những thế lực đen tối hơn, bao gồm cả vai trò caliph được tuyên tạo bởi Abu Bakr al-Baghdadi, lãnh đạo của Nhà nước Hồi giáo. Ngay cả khi họ không kích động bạo lực chống lại phương Tây, các mạng lưới toàn cầu về chủ nghĩa tôn giáo cơ yếu và chủ nghĩa thanh giáo, chẳng hạn như những mạng lưới kết nối những giáo sĩ Pakistan với các giáo sĩ Saudi Arabia, đã thay thế giọng điệu tương đối ôn hòa được thiết lập bởi các caliph Ottoman, những người vốn biết thưởng  thức nghệ thuật và âm nhạc phương Tây.

Đây có phải chỉ là một chi tiết hấp dẫn của lịch sử? Vâng, nhiều hơn thế, theo quan điểm của Laurence. Thật ngây thơ khi tưởng tượng rằng Hồi giáo Châu Âu ngày nay có thể được cách li hoàn toàn khỏi các quốc gia nơi mà đạo Hồi chiếm ưu thế. Bằng cách này hay cách khác, người Hồi giáo ở châu Âu sẽ bị tác động bởi những ý tưởng và phong cách xuất phát từ các nước nơi đức tin của họ chiếm ưu thế. Các chính phủ châu Âu ngày nay cần phải có một sự hiểu biết tinh tế về việc ảnh hưởng đó tác động như thế nào, và trên hết là hiểu được nguy cơ của những hậu quả không mong muốn. Bằng cách ngăn chặn một luồng ảnh hưởng văn hoá hoặc thần học nào đó, họ có thể mở đường cho những luồng ảnh hưởng mới tồi tệ hơn nhiều.

————-

Chú thích:

  • Caliphate (khalifah, khilafat hay Triều đại khalip): Là một thể chế Hồi giáo được lãnh đạo bởi một lãnh tụ tôn giáo (và thường cả chính trị) tối cao gọi là caliph – nghĩa là “người kế tục”, ở đây được hiểu là người kế tục nhà tiên tri Muhamad. Do caliph thường là chúa tể của một đế quốc Hồi giáo, thuật ngữ caliphate trong lịch sử thường dùng để chỉ các đế quốc như vậy ở Trung Đông và Tây Nam Á. (Wikipedia.org)
  • Caliph: Là vị chức sắc cao nhất đối với tín đồ Hồi giáo trên thế giới. Trong nhiều thế kỷ, caliph cũng giữ vai trò hoàng đế chung của tất cả các nước mà Hồi giáo là quốc đạo. (Wikipedia.org)
  • Ulema: một bộ phận các học giả Hồi giáo được công nhận là có kiến thức chuyên môn về bộ luật linh thiêng của Hồi giáo và thần học. (Wikipedia.org)
  • Chủ nghĩa cơ yếu (fundamentalism): một hình thức tôn giáo, đặc biệt là đạo Hồi hay đạo Cơ đốc Tin Lành, duy trì sự tin tưởng vào việc diễn giải nghiêm ngặt, theo nghĩa đen của Kinh thánh. (Oxford Dictionany)