Claire Lee Chennault: Người hùng của Phi đội Hổ Bay

Print Friendly, PDF & Email

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Trong cuộc trưng cầu ý dân nhân dịp 50 năm chiến thắng phát xít, khi được đề nghị chọn 2 anh hùng của cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ II, đa số người Mỹ đã chọn Dwight D. Eisenhower là anh hùng trên chiến trường châu Âu (về sau được bầu làm Tổng thống Mỹ), và Claire Lee Chennault là anh hùng trên chiến trường châu Á -Thái Bình Dương. Nhân dịp đó, một con tem in hình Chennault đã được phát hành.

Chennault dưới cái tên tiếng Hoa Trần Nạp Đức (陳 納 德) hoặc Trần Tướng quân đã trở nên quá quen thuộc với người Trung Quốc, họ coi ông là một ân nhân tình sâu nghĩa nặng.

Tháng 11 năm 1931, phát xít Nhật bắt đầu xâm lược Trung Quốc. Máy bay Nhật dội bom các đô thị với mục đích giết thật nhiều dân để làm người Trung Quốc sợ hãi đầu hàng Nhật. Tháng 7/1937, Trung Quốc chính thức bắt đầu kháng chiến chống Nhật. Ngày 13/8/1937, tàu chiến và máy bay Nhật bắn phá Thượng Hải. Hôm sau, lần đầu tiên trong lịch sử, một phi đội không quân của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc do Tưởng Giới Thạch làm Tổng thống cất cánh ném bom tàu chiến Nhật và bắn rơi 6 máy bay Nhật, phía Trung Quốc không bị thiệt hại gì. Từ đó ngày 14 tháng 8 hàng năm trở thành Ngày Không quân Trung Quốc.

Phát xít Nhật lập tức đánh trả. Với lực lượng áp đảo, chỉ trong 2 tháng, không quân Nhật đã tiêu diệt hầu hết máy bay Trung Quốc. Từ đó, Nhật tự do ném bom. Trong 2 ngày ném bom Trùng Khánh (11/1937) có 5.400 người dân chết, 3.100 bị thương. Thượng tá Chennault mới đến Trung Quốc được 2 tháng đã chứng kiến tai hoạ thảm khốc đó.

Chennault (1893-1958) từng là phi công tham dự Thế chiến I. Sau chiến tranh, ông dạy lái máy bay và nổi tiếng về tài nghệ bay qua cuộc biểu diễn kỹ xảo bay ở Miami. Có người khen ông là thiên tài, có kẻ bảo ông là thằng điên. Chennault năng nổ, cần cù, cậy tài, bất cần ai, và có nhiều quan điểm quá khích nên không được cấp trên để mắt. Ông là người Mỹ đầu tiên đề xuất nên dùng nhiều máy bay nhỏ để tấn công máy bay ném bom; nhưng chỉ huy không quân Mỹ hồi ấy (vốn là một phi công ném bom) đã không tiếp thu đề nghị đó vì cho rằng máy bay ném bom là vô địch. Chennault bèn viết một bài báo chỉ trích ông này. Một chỉ huy khác tên là Henry “Hap” Arnold (về sau là tư lệnh Không quân Mỹ trong Thế chiến II) còn hỏi: “Cái lão Chennault ấy là người thế nào hả?”

Năm 1937, Chennault giải nghệ vì lý do bệnh phổi do nghiện thuốc lá và điếc đặc do tác động của tiếng động cơ máy bay. Sau đó Trung Quốc mời ông sang giúp chống phát xít Nhật; Liên Xô mời ông sang chiến đấu chống Franco ở Tây Ban Nha. Ông chọn Trung Quốc, vì chính Đệ nhất Phu nhân Trung Quốc Tống Mỹ Linh đích thân mời ông làm cố vấn cho không quân Trung Quốc. Bà Tống được chồng là Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch cử phụ trách xây dựng lực lượng không quân với chức vụ Tổng Thư ký Uỷ ban Hàng không Trung Quốc – vì bà rất giỏi tiếng Anh và có quan hệ thân mật với các nhân vật chóp bu chính quyền Mỹ và trùm tư bản Mỹ. Trong con mắt người Mỹ, bà còn nổi tiếng hơn ông chồng họ Tưởng.

Được bà Tống đặc biệt coi trọng, Chennault quyết thực hiện hoài bão của mình, hiến dâng quãng đời còn lại cho cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc. Ông viết trong nhật ký: “Trong lòng tôi, bà ấy bao giờ cũng là một nàng công chúa.”

Khi đến Trung Quốc, ông rất bực mình vì không quân nước này có 500 máy bay nhưng chỉ 91 chiếc có thể cất cánh được. Nguyên nhân là cách huấn luyện cực kỳ tồi tệ. Trường Hàng không (do Ý tổ chức) bậy bạ phát bằng lái cho các học viên – vì họ đều được chọn từ tầng lớp thượng lưu, chỉ muốn tốt nghiệp một cách dễ dãi. Nhà máy lắp ráp máy bay mua của Ý cũng chỉ lắp một loại máy bay chiến đấu kiểu Fiat rất dễ bốc cháy, máy bay ném bom thì lạc hậu, chỉ có thể dùng để chở hàng. Hậu quả là máy bay Trung Quốc đều dễ dàng bị bắn hạ khi gặp máy bay địch. Phi công Nhật chỉ sợ biên đội máy bay Liên Xô bảo vệ Vũ Hán do các phi công Nga đã tham gia chiến tranh Tây Ban Nha lái.

Trước tình hình đó, Tưởng Phu nhân Tống Mỹ Linh yêu cầu Chennault: trong khi chờ tổ chức lại việc đào tạo phi công Trung Quốc, nên thuê một số phi công phương Tây sang Trung Quốc chiến đấu. Lúc đó, một doanh nhân Mỹ sẵn sàng bán cho Trung Quốc 24 máy bay ném bom tầm xa kiểu V-11. Chennault đồng ý. Thế là ông tổ chức được một phi đội tình nguyện bảo vệ Vũ Hán, gọi là IVG. Đáng tiếc là phần lớn các phi công lê dương (tiếng Anh: legion, tức lính đánh thuê) này đều nghiện rượu, kém tinh thần kỷ luật, tối nào cũng tụ tập tại các quán rượu chè chén, tán chuyện. Gián điệp Nhật thừa cơ moi được các bí mật, kể cả việc họ chuẩn bị ném bom sân bay Nhật ở Tế Nam. Và thế là máy bay Nhật lập tức tập kích Vũ Hán, tiêu diệt gần hết số máy bay V-11. Chennault phải tổ chức hệ thống báo động bằng điện thoại, điện báo để báo nhân dân xuống hầm trước khi máy bay địch đến. Ông chỉ còn trông mong vào các phi công Nga, nhưng viện trợ từ Liên Xô ngày càng giảm, vì Moskva đang phải lo đối phó với cuộc xâm lược của phát xít Đức.

Bây giờ chỉ còn Mỹ là có thể viện trợ Trung Quốc. Nhưng nước Mỹ hồi ấy chủ trương “trung lập”, không chống lại hành động xâm lược của Nhật. Một số trùm tư bản Mỹ còn bán cho Nhật nhiều vật tư chiến lược. Cuộc kháng chiến của Trung Quốc vô cùng khó khăn. Tưởng Giới Thạch phải chuyển thủ đô đến Trùng Khánh tận Tây Nam Trung Quốc. Nhật liền chiếm Đông Dương, cắt đường viện trợ Trung Quốc qua tuyến đường sắt Hải Phòng-Côn Minh. Nhật còn cho máy bay cất cánh từ sân bay Gia Lâm Hà Nội sang ném bom miền Tây Nam Trung Quốc để cắt đường viện trợ Trung Quốc qua Miến Điện (tức Myanmar).

Tháng 6/1940, Tưởng cử anh vợ là Tống Tử Văn đi Mỹ xin viện trợ, nhưng Quốc Hội Mỹ chỉ cho nhỏ giọt, một lần 5 triệu, một lần 25 triệu USD. Chỉ sau khi Franklin Delano Roosevelt lần thứ 3 trúng cử Tổng thống Mỹ, tháng 12/1940, Quốc Hội Mỹ mới duyệt đề nghị của Roosevelt cho Trung Quốc vay 100 triệu USD. Đầu năm 1942, Roosevelt đưa ra chương trình “Cho thuê-vay” (Lend-lease) nổi tiếng, qua đó Mỹ đã viện trợ trang bị vũ khí cho các nước chống phát xít như Anh, Liên Xô, Trung Quốc v.v.. với tổng số hơn 50 tỷ USD (lưu ý: ngày ấy đồng dollar có giá trị gấp hàng chục lần hiện nay).

Tháng 10/1940, Chennault về Mỹ mua máy bay và tuyển phi công. Việc mua máy bay không khó: Hồi đó Anh từ chối nhận 100 máy bay chiến đấu P-40 của Mỹ (do chê nặng và chậm) nên Chennault bảo Tống Tử Văn khuyên Mỹ hứa là nếu Anh bán số P-40 này cho Trung Quốc thì Mỹ sẽ bán cho Anh máy bay tốt hơn. Anh đồng ý ngay. Nhưng việc tuyển phi công thì lại rất khó, vì một đạo luật năm 1908 của Mỹ quy định tước quyền công dân của các công dân Mỹ “tuyên thệ trung thành với nước ngoài”. Năm 1936, nhiều phi công Mỹ tình nguyện chiến đấu cho phe Cộng Hoà ở Tây Ban Nha đã bị Chính phủ Mỹ thu hồi hộ chiếu vì lý do đó. Tháng 4/1941, Tổng thống Roosevelt – vốn rất muốn giúp Trung Quốc chống Nhật – ký một sắc lệnh cho phép quân nhân Mỹ được từ chức để ký với Chennault hợp đồng đánh thuê 1 năm cho Trung Quốc, sau đó họ có thể trở về chức vụ cũ trong quân đội Mỹ. Họ được Trung Quốc trả lương tháng 750 USD (hồi ấy là rất cao), chưa kể các phụ cấp khác và kỳ nghỉ phép 30 ngày; ngoài ra cứ bắn rơi 1 máy bay địch thì được thưởng 500 USD. Để lách luật, các phi công này đều dùng hộ chiếu giả làm khách du lịch, nhà truyền giáo v.v… đến Trung Quốc.

Đầu tiên họ được huấn luyện ở Miến Điện. Ngày 1/8/1941, phi đội tình nguyện chính thức ra đời. 100 máy bay P-40 được chở bằng tầu biển đến Rangoon để lắp ráp tại đây. Các máy bay đều được sơn hình hàm cá mập, vì nghe nói người Nhật rất sợ cá mập. Các phi công rất mến Chennault, vị chỉ huy nghiêm khắc nhưng giản dị và bình dân; đặc biệt con người có bộ mặt sần sùi này không ngờ rất có duyên hấp dẫn các cô gái.

Ngày 7/12/1941, Nhật lén lút tấn công Trân Châu cảng (Pearl Harbor), Mỹ tuyên chiến với Nhật. Phi đội của Chennault chuyển đến Trung Quốc. Lúc ấy, Nhật đã ném bom Trùng Khánh và Côn Minh được hơn 1 năm mà chưa hề bị máy bay Trung Quốc ngăn chặn. Ngày 20/12/1941, 10 máy bay Nhật kiểu Ki-21 cất cánh từ sân bay Gia Lâm Hà Nội đến ném bom Côn Minh, bất ngờ chạm trán 24 máy bay “Hàm cá mập” của Chennault. 6 máy bay Ki-21 bị hạ, chỉ có 1 chiếc P-40 bị rơi. Trước chiến thắng lớn này, Chennault đã khóc vì xúc động. Về sau, phi đội của ông lại đánh tan các đội máy bay Nhật ném bom miền Nam Miến Điện. Trong nhiều tháng liền, các phi công Mỹ đánh cho Nhật nhiều đòn đau. Người Trung Quốc yêu quý gọi phi đội tình nguyện của Chennault là Phi đội Hổ bay (Flying Tigers).

Đáng tiếc là trong phi đội có một phi công rất ngang tàng hay trêu chọc Tưởng Tổng thống. Trong một lần vợ chồng Tưởng đến thăm phi đội Hổ Bay ở Côn Minh, khi hai người lên máy bay DC-2 để về Trùng Khánh, anh này cho máy bay mình cất cánh sà vào sát chiếc DC-2, khiến Tống Mỹ Linh sợ quá ngã lăn xuống chân cầu thang.

Lúc bấy giờ vì Mỹ đã tham chiến chống Nhật nên các phi công tình nguyện đều phải trở về tư thế quân nhân Mỹ tại ngũ, lĩnh lương Mỹ, mặc đồng phục không quân Mỹ. Tháng 4/1942, Chennault nhận quân hàm chuẩn tướng, nhưng từ nay ông phải phục tùng cấp chỉ huy Mỹ. Các phi công Mỹ bắt đầu suy nghĩ hơn thiệt. Gần hết toàn đội xin từ chức, tuy Chennault phản đối.

Tháng 7/1942, phi đội Hổ Bay chấm dứt tồn tại. Trong một năm chiến đấu, phi đội đã bắn hạ 297 máy bay Nhật, họ chỉ mất có 12 máy bay. Mỗi phi công Hổ Bay hy sinh đổi lấy 92 mạng phi công Nhật. Đây là kỷ lục không chiến cao nhất trong Thế chiến II.

Tuy vậy, các phi công Mỹ vẫn tiếp tục sang Trung Quốc chiến đấu dưới sự chỉ huy của Chennault, nay đã là thiếu tướng. Người Trung Quốc không biết câu chuyện trên vẫn quen gọi họ là Phi đội Hổ Bay, tuy đơn vị này đã đổi tên là Đội Hàng không số 14 và ngày càng lớn mạnh, chuyển sang tìm địch mà đánh. Khi diệt hết máy bay Nhật, họ chuyển sang chi viện lục quân Trung Quốc. Cho tới ngày Nhật đầu hàng (15/8/1945), tổng cộng có 500 máy bay của đội 14 bị rơi, nhưng họ đã bắn hạ 2.600 máy bay địch, phá huỷ 2,23 triệu tấn tàu vận tải cùng 44 tàu chiến Nhật.

Tháng 7/1945, Chennault từ chức. Hôm ông về Mỹ, hàng chục nghìn người Trung Quốc ra đường tiễn ông như một ân nhân của họ. Claire Lee Chennault trở thành người châu Âu thứ hai (sau Marco Polo) được nhân dân Trung Quốc hết lòng yêu quý.

Năm 1947, ông trở lại Trung Quốc để cưới vợ là bà Trần Hương Mai kém ông 33 tuổi. Ngày 24/7/1958, vợ ông nhận điện thoại của Tổng thống Eisenhower báo tin Chennault được thăng cấp tướng 3 sao. Khi ấy bệnh ung thư của ông đã đến thời kỳ cuối. Ba ngày sau, Chennault qua đời.

Theo lời bà Trần Hương Mai nói trên đài truyền hình Trung Quốc, Chennault và bà cưới nhau tháng 7/1947 ở Thượng Hải. Bà nói ông có tính tình rất hiền tuy vẻ mặt nghiêm nghị. Sau đó ông mở một công ty Hàng không đặt tại Côn Minh. Nơi này hiện còn giữ nguyên căn nhà Chennault từng ở, nay dùng làm nhà Bảo tàng Phi đội Hổ Bay.

Cho tới nay, đã có hơn 500 nghìn người Trung Quốc tham gia tìm kiếm hài cốt các phi công Mỹ hy sinh mất tích trong chiến tranh chống Nhật. Tháng 10/1997, người ta tìm thấy hài cốt 5 quân nhân Mỹ và mảnh vụn chiếc máy bay B-24 của họ bị rơi trên một ngọn núi ở Quảng Tây.

Cũng cần nói thêm là năm 1945, Lãnh tụ tổ chức Việt Minh của Việt Nam là Hồ Chí Minh từng có lần đến Côn Minh gặp Chennault Tư lệnh Đội Hàng không số 14 để bàn việc Mỹ hợp tác với Việt Minh đánh Nhật./.

Nguyễn Hải Hoành tổng hợp theo các tài liệu của Trung Quốc và Mỹ.

Trần Hương Mai: Thế lực bí ẩn trong chính trường Hoa Kỳ