Nguồn: Richard K. Betts, The No-Fly Zone Delusion, Foreign Affairs, 10/03/2022
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Tại Ukraine, ý định tốt cũng không thể cứu vãn nổi ý tưởng tệ.
Đối mặt với cuộc xâm lược tàn bạo của Nga vào Ukraine, nhiều người Mỹ và châu Âu đang thúc đẩy chính phủ của họ hỗ trợ quân sự nhiều nhất có thể cho Kyiv. Một ý tưởng được nhiều nhà quan sát và nhà bình luận nổi tiếng ủng hộ là thiết lập vùng cấm bay – nghĩa là sử dụng vũ lực (hoặc đe dọa sử dụng vũ lực) để ngăn máy bay Nga bay vào một số vùng trong không phận phía trên Ukraine, từ đó ngăn chặn các cuộc không kích của Nga nhắm vào lực lượng quân đội và dân thường Ukraine trong khu vực. Việc tạo ra một vùng cấm bay như vậy sẽ đòi hỏi kết hợp giữa thu thập thông tin tình báo hàng ngày, quan sát từ mặt đất, luân phiên tuần tra trên không với một số lượng lớn máy bay và phi công – và quan trọng nhất, là phải thực sự ngăn cản máy bay đối phương xâm nhập vào vùng trời đã được chỉ định là vùng cấm bay.
Đề xuất vùng cấm bay được lấy cảm hứng từ việc lực lượng Mỹ và NATO đã áp dụng khái niệm này ở Iraq sau Chiến tranh Vùng Vịnh, ở Bosnia vào giữa những năm 1990, và ở Libya trong cuộc nội chiến năm 2011. Đáng chú ý, những trường hợp đó đều không liên quan đến việc áp đặt một vùng cấm đối với một cường quốc. Thay vào đó, chúng thể hiện việc một siêu cường hùng mạnh, ở đây là Mỹ, đặt ra yêu cầu đối với các đối thủ địa phương yếu thế hơn, những bên thậm chí còn không đủ khả năng để đối đầu với Mỹ. Không có ví dụ nào về cái gọi là “vùng cấm bay” được áp đặt lên một cường quốc, bên ngoài bối cảnh của các trận đánh nhằm giành ưu thế trên không trong chiến tranh thông thường.
Ý tưởng thiết lập vùng cấm bay phản ánh một động lực nhân đạo, để giảm bớt đau khổ cho người Ukraine, và “làm điều gì đó” để chặn quân Nga xâm lược. Nhưng hiện thực hóa ý tưởng ấy sẽ khiến tình thế đi đến chỗ tồi tệ hơn nhiều. Và kết luận này vẫn đúng ngay cả trong trường hợp một khu vực cấm bay hạn chế, như đề xuất hồi đầu tuần của hơn hai chục chuyên gia và cựu quan chức – một ý tưởng nghe có vẻ hợp lý nhưng trên thực tế lại vô cùng liều lĩnh.
Một kế hoạch nhiều rủi ro
Vùng cấm bay hạn chế ở đây nhằm mục đích chủ yếu là bảo vệ các hành lang đưa dân thường trốn thoát an toàn trước các cuộc không kích từ phía Nga. Tuy nhiên, chí ít thì trong vài tuần lễ đầu tiên của cuộc chiến, hoạt động của không quân Nga cũng không phải là vấn đề chính. Pháo binh và tên lửa bắn từ mặt đất gây sát thương lớn hơn nhiều so với máy bay ném bom Nga, và một vùng cấm bay sẽ không ảnh hưởng nhiều đến các cuộc tấn công như vậy.
Ngay cả khi người ta chấp nhận tiền đề rằng việc hạn chế, không cho Nga tiếp cận không phận Ukraine sẽ tạo ra khác biệt đáng kể, các đề xuất về vùng cấm bay tại Ukraine vẫn chứa đựng một vài sai lầm nghiêm trọng: hoặc là chúng giả định kịch bản tốt nhất là người Nga đơn giản sẽ đồng ý với đề xuất này, hoặc chúng chấp nhận rủi ro đáng kể của việc kích động chiến tranh trực tiếp giữa NATO và Nga.
Có thể Nga sẽ thận trọng, và đơn giản chấp nhận yêu cầu ngừng tấn công trong và xung quanh các hành lang dành riêng để sơ tán dân thường. Nhưng điều đó khó có thể xảy ra, bởi xét cho cùng, Moscow đã đánh cược vào một cuộc chiến mà họ tuyên bố ngay từ đầu là do mối đe dọa từ NATO thúc đẩy, giai đoạn đầu của cuộc chiến này đã đem lại kết quả đáng xấu hổ cho quân đội Nga, nhưng không có khả năng Tổng thống Nga Vladimir Putin sẽ có bất kỳ hành động rút lui nào khi phải đối mặt với tối hậu thư của NATO.
Nếu người Nga không thừa nhận vùng cấm bay, NATO sẽ phải quyết định có thực thi nó hay không, nghĩa là có sẵn sàng bắn hạ máy bay Nga – và sẵn sàng là người bắn những phát súng đầu tiên hay không. Đừng nhầm lẫn: dù không chiến nhằm thực thi vùng cấm bay chỉ giới hạn trong không phận Ukraine, nhưng nó vẫn sẽ dẫn đến chiến tranh giữa NATO và Nga. Và ngay cả một xung đột hạn chế cũng sẽ trở thành một dấu mốc của thời đại: đây sẽ là cuộc chiến trực tiếp đầu tiên giữa các cường quốc kể từ năm 1945.
Tất nhiên, Mỹ và các đồng minh đã tham gia chiến đấu chống lại các lực lượng Nga, nhưng chỉ là gián tiếp, bằng cách cung cấp vũ khí và vật tư cho Ukraine. Tuy nhiên, tham gia với mức độ như vậy là dưới ngưỡng leo thang, vốn đã được ngầm thiết lập bởi kinh nghiệm trong quá khứ. Ví dụ, Liên Xô đã cung cấp vũ khí cho Triều Tiên và Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại người Mỹ ở Hàn Quốc vào những năm 1950, và một lần nữa hỗ trợ quân cộng sản Việt Nam chống lại lính Mỹ trong những năm 1960. Về phần mình, Mỹ đã giúp đỡ phiến quân thánh chiến Hồi giáo (mujahideen) chiến đấu với Liên Xô ở Afghanistan trong những năm 1980. Trong những trường hợp này, người Nga và người Mỹ dù rất tức giận trước thương vong gây ra do hành vi hỗ trợ, nhưng đã cố gắng không trả đũa bằng vũ lực chống lại các nhà nước hỗ trợ, vì sợ rằng các cuộc chiến tranh nhỏ sẽ trở thành các cuộc chiến tranh lớn. Đúng là các phi công Mỹ và Liên Xô đã trực tiếp giao chiến với nhau trong một số trận không chiến của Chiến tranh Triều Tiên. Nhưng cả hai bên đều giữ bí mật nghiêm ngặt điều này, mãi cho đến nhiều năm sau đó, chính xác là để kiềm chế các áp lực chính trị nhằm mở rộng chiến tranh. Trong thế giới công nghệ truyền thông ồ ạt và thông tin tình báo nguồn mở dồi dào ngày nay, chúng ta chẳng thể nào giữ được bí mật về cuộc không chiến ở Ukraine.
Sự bùng nổ của một cuộc chiến tranh giữa các cường quốc không phải là rủi ro duy nhất đến từ tuyên bố vùng cấm bay. Hãy thử cân nhắc chuyện gì có thể xảy ra nếu người Nga từ chối chấp nhận vùng cấm bay, và trước thái độ ngoan cố của Moscow, NATO đành lùi bước và quyết định không thực thi đề xuất – chính xác là để tránh một cuộc chiến tranh rộng hơn. Tuyên bố về khu vực cấm bay sẽ bị coi là một trò lừa bịp thảm hại. Dù tầm quan trọng của sự khả tín thường bị phóng đại, và quá thường xuyên bị đem ra làm cái cớ cho những cam kết quân sự sai lầm, nhưng trong trường hợp này, thiệt hại đối với uy tín của NATO sẽ là rất lớn. Một động thái như vậy sẽ không chỉ cho thấy khẳng định giúp đỡ Ukraine chỉ là nói suông, mà còn làm nổi bật và gia tăng những nghi ngờ về việc liệu liên minh có thực hiện đúng lời hứa căn bản của họ về phòng thủ tập thể hay không, đặc biệt là khi nói đến các thành viên yếu hơn, mới hơn, chẳng hạn như các quốc gia vùng Baltic dễ bị tổn thương.
Một sai lầm lớn
Cuộc chiến ở Ukraine là kết quả đau đớn từ phản ứng thái quá của Putin đối với hai sai lầm của NATO. Sai lầm thứ nhất là tuyên bố của khối này, vào năm 2008, rằng một ngày nào đó Ukraine và Gruzia sẽ tham gia vào tổ chức. (Trong trường hợp của Ukraine, một kế hoạch nhằm “Phần Lan hóa” nước này sẽ là lựa chọn tốt hơn, đánh đổi sự trung lập trong quan hệ giữa Moscow và phương Tây, để lấy độc lập và dân chủ nội bộ.) Tuy nhiên, một khi mục tiêu trở thành thành viên NATO được công khai, sai lầm thứ hai là không hoàn thành nó ngay lập tức, và qua đó sớm thiết lập hàng rào răn đe đảm bảo của NATO. Khi xét đến quan điểm của Putin, rằng việc mở rộng NATO là một mối đe dọa đối với Nga, chính giai đoạn mơ hồ này đã tạo ra động cơ – và cơ hội – để ông ta thực hiện một cuộc chiến phòng ngừa.
Kết quả là một bi kịch đau lòng. Nhưng cố gắng đối phó với nó bằng cách trực tiếp tham chiến một cách muộn màng – tuyệt vọng lập ra một vùng cấm bay, mà không có gì đảm bảo rằng nó sẽ không dẫn đến một thảm họa lớn hơn – sẽ chỉ làm bi kịch ngày càng tồi tệ hơn. NATO nên giúp Ukraine, nhưng phải duy trì nó dưới ngưỡng leo thang đã định sẵn. Nghĩa là sự hỗ trợ sẽ ít nhiều gồm những gì liên minh đã và đang làm: cứu trợ dân thường tị nạn, và hỗ trợ vũ khí, đạn dược, lương thực, và hậu cần cho quân đội Ukraine bất cứ khi nào có thể.
Sự thôi thúc giúp đỡ Ukraine là điều đáng hoan nghênh. Nhưng điều duy nhất tồi tệ hơn việc đứng ngoài quan sát nước này dần thất bại chính là hứa hẹn can thiệp quân sự trực tiếp, và sau đó không làm được gì, hoặc tệ hơn, gia tăng rủi ro và biến những gì rõ ràng là một cuộc chiến tranh lạnh mới thành một cuộc chiến tranh nóng – một cuộc chiến có khả năng tạo ra tàn phá và thương vong lớn hơn trên khắp thế giới, ở một quy mô khiến cho thiệt hại hiện tại ở Ukraine trở thành không đáng kể.
Richard K. Betts là Giáo sư về Chiến tranh và Nghiên cứu Hòa bình tại Đại học Columbia, Nghiên cứu viên cao cấp của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, và là tác giả cuốn American Force: Dangers, Delusions, and Dilemmas in National Security.