Nguồn: David Remnick, “What Is Putin Thinking?”, New Yorker, 27/03/2022
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Năm 1996, năm mà Vladimir Putin chuyển từ St. Petersburg đến Moscow để đảm nhận một vị trí tại Điện Kremlin của Boris Yeltsin, tờ báo của chính phủ Nga Rossiyskaya Gazeta đã hỏi độc giả một câu hỏi quan trọng: “Các bạn có đồng ý rằng chúng ta đã chịu đựng dân chủ quá đủ rồi không? Chúng ta không thể thích nghi với nó, và giờ đây đã đến lúc thắt chặt kiểm soát?” Tờ báo đã thiết lập một đường dây nóng và treo thưởng số tiền tương đương 2.000 đô la cho bất kỳ người nào có thể đưa ra một “tư tưởng dân tộc thống nhất” mới. Hành động ấy phản ánh một đất nước túng quẫn đang trong tình cảnh mất tinh thần và chia rẽ.
Cùng lúc đó, Yeltsin đã tập hợp một ủy ban gồm các học giả và chính trị gia để tạo ra một “tư tưởng dân tộc” (national idea) mới. Có lẽ cuộc thi trên tờ báo kể trên có thể hỗ trợ quá trình này. Nhưng nỗ lực của họ đã chẳng đi đến đâu. Yeltsin không tạo dựng được bất kỳ động lực nào để ủng hộ các lý tưởng dân chủ, và sự lạc quan về chính trị trong giai đoạn 1989-1991, đối với hầu hết người Nga, giờ đây được xem là một ký ức cay đắng. Mạng lưới an sinh xã hội thời Liên Xô đã bị xé tan tành. Trong khi dân thường chán ngán cảnh ngó nghiêng tại các cửa hàng để ngắm những món đồ nhập khẩu lấp lánh, một nhóm các nhà tài phiệt lại được phép mua lại các doanh nghiệp nhà nước có giá trị nhất chỉ với giá vài kopeck. Yeltsin tái đắc cử, đánh bại ứng viên Cộng sản, Gennady Zyuganov, nhưng đó là vì ông đã tranh thủ nhóm đầu sỏ, những người với mong muốn tự bảo vệ mình, đã tài trợ cho ông, và còn giúp che đậy tình trạng kiệt sức và chứng nghiện rượu của ông. Cuối những năm 1990, dân chủ, hay demokratia trong tiếng Nga, được gọi trại thành dermokratia, tức chế độ thối tha. Mức độ ủng hộ Yeltsin đã giảm xuống chỉ còn một con số.
Chính những trí thức từng mơ ước về tự do ngôn luận, pháp quyền, và một nền tự do dân chủ, nay đã trải qua cảm giác thất bại nặng nề. “Người ta không biết đất nước mới này, nước Nga, thực sự là gì,” Andrei Zorin, một nhà sử học văn hóa nổi tiếng, lên tiếng vào thời điểm đó, khác hẳn với bầu không khí Khai sáng đã dẫn đến sự ra đời của Mỹ và Pháp. “Bốn, năm năm qua, nước Nga gần như chẳng tạo ra gì, ngoài sự cuồng loạn thuần túy.”
Putin lên nắm quyền vào năm 1999, với hình tượng không phải là một người đàn ông của ý thức hệ, mà là một nhân vật có sức khỏe tràn trề và năng lực quản lý hiệu quả. Trên thực tế, ông là người của KGB, được đào tạo để xem phương Tây, đặc biệt là Mỹ, là kẻ thù của mình, và để phát hiện những kẻ âm mưu làm suy yếu và hạ nhục nước Nga ở khắp mọi nơi. Ông không thành lập bất kỳ ủy ban nào để tìm ra một tư tưởng dân tộc, cũng không thiết lập bất kỳ đường dây nóng nào. Nhưng dần dần, ông đã thiết lập một chế độ cá nhân xoay quanh sự bảo trợ và quyền lực tuyệt đối của mình. Và bản sắc dân tộc mà ông giúp truyền bá – phi tự do, đế quốc chủ nghĩa, căm phẫn phương Tây – đã đóng một vai trò cốt lõi trong cuộc xâm lược tàn bạo của ông vào Ukraine.
Để tạo ra những liên hệ với bản sắc Nga mới này, Putin đã tận dụng tất cả những tư tưởng phản động hiện hành. Trong khi hầu hết các nhà quan sát chú ý nhiều hơn đến sự chuyển hướng của giới trí thức và chính trị sang phương Tây vào cuối những năm 1980-1990, nhiều nhà tư tưởng, ấn phẩm, và thể chế của Nga lại lấy cảm hứng từ những nguồn rất khác. Các tờ báo như Dyen (Nhật báo) và Zavtra (Ngày mai) cho đăng tải nhiều bài viết về ảnh hưởng tàn khốc của quyền lực văn hóa và chính trị Mỹ. Nhiều học giả đã ca ngợi “bàn tay sắt” (the strong hand), với ví dụ là các Sa hoàng chuyên đàn áp như Alexander III và Nicholas I, hoặc các lãnh đạo chuyên quyền nước ngoài như Augusto Pinochet. Triết gia hoang tưởng Aleksandr Dugin thì cho ra đời một cuốn sách tân phát xít về cuộc chiến vĩnh cửu giữa “sức mạnh trên biển” của phương Tây với “sức mạnh trên đất liền” của Á-Âu, và ông đã tìm thấy các độc giả của mình trong giới chính trị, quân sự và tình báo Nga.
Ngay từ những năm đầu tiên nắm quyền, Putin đã bị ám ảnh bởi việc khôi phục sức mạnh của Nga trên thế giới, và coi lực lượng an ninh là thể chế duy nhất để kiểm soát trong nước. Sự bành trướng của NATO, và việc không kích Belgrade, Iraq, và Libya đã khơi dậy lòng nghi ngờ của ông đối với phương Tây, và thúc đẩy ông hướng vào trong nhiều hơn. Ông cũng nhận ra tầm quan trọng của các biểu tượng và thể chế truyền thống trong việc thống nhất người dân và xác lập các đặc điểm của một chủ nghĩa biệt lệ mới tại Nga. Ông cho khôi phục lại bài quốc ca cũ của Liên Xô với lời mới. Ông cũng nói với những người phỏng vấn và quan khách viếng thăm rằng mình là một tín đồ Chính thống giáo, và không hề phủ nhận tin đồn về việc sử dụng một dukhovnik, một người hướng dẫn về mặt tâm linh, tên là Tikhon Shevkunov. Cha Tikhon, người từng xuất hiện trong nhiều bộ phim và đang điều hành trang web pravoslavie.ru, phủ nhận việc ông có ảnh hưởng đáng kể đối với Putin (“Tôi không phải là Hồng y Richelieu!”), nhưng đồng thời khẳng định rằng mình là một người theo chủ nghĩa dân tộc bảo thủ, người tin vào “con đường đặc biệt” của nước Nga.
Năm 2004, khi Ukraine đang ở giữa Cách mạng Cam, Putin không chỉ kêu gọi các cơ quan an ninh của mình ngăn chặn Kyiv ngả sang phương Tây, mà còn tăng cường những lập luận về một hệ tư tưởng đế quốc. Ông bắt đầu tán thành những nhà tư tưởng bảo thủ như Nikolai Berdyaev và Ivan Ilyin, những người tin tưởng vào vận mệnh cao đẹp của Nga cũng như bản chất “nhân tạo” của Ukraine. Và để phòng khi có ai đó bỏ lỡ thông điệp, Điện Kremlin còn phân phát tài liệu đọc phù hợp cho các thống đốc và công chức địa phương.
Năm 2007, năm mà Putin có bài phát biểu chống phương Tây nổi tiếng tại Munich, ông đã đến thăm nhà văn và nhà tư tưởng từng được coi là kẻ thù lớn nhất của nhà nước Xô Viết: Aleksandr Solzhenitsyn. Giống như Putin, Solzhenitsyn tin rằng Nga và Ukraine có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, và Putin đã cố gắng khai thác quan điểm đạo đức của Solzhenitsyn để nhấn mạnh quan điểm coi thường nền độc lập của Ukraine của chính mình. Điều mà ông khéo léo bỏ qua là việc Solzhenitsyn, vào năm 1991, đã khẳng định rằng nếu người Ukraine chọn đi theo con đường riêng của mình – như những gì họ thể hiện trong cuộc trưng cầu dân ý với tỷ lệ 99% – thì ông sẽ “nhiệt liệt chúc mừng” họ. (“Chúng ta sẽ luôn là láng giềng. Hãy là những người láng giềng tốt của nhau.”)
Tính đến thời điểm Putin quay trở lại ghế Tổng thống, vào năm 2012, sự quan tâm của ông đối với các giá trị bảo thủ rõ ràng đã trở nên sâu sắc hơn. Ông thẳng tay đàn áp những người bất đồng chính kiến, phỉ báng họ là “kẻ phản bội,” là “đạo quân thứ năm” mà Mỹ hậu thuẫn. Ông ra lệnh chiếm Crimea và xâm lược miền đông Ukraine. Tầm nhìn của ông rằng Moscow sẽ là trung tâm của các tư tưởng chống tự do và quyền lực Á-Âu ngày càng trở nên mạnh mẽ. Trong thời gian xảy ra đại dịch, ông hiếm khi gặp trực tiếp các cố vấn của mình; tuy nhiên, theo nhà phân tích chính trị Mikhail Zygar, ông đã dành nhiều ngày ở căn nhà nghỉ dưỡng để nói chuyện với Yury Kovalchuk, ông trùm truyền thông kiêm cổ đông lớn nhất của Ngân hàng Rossiya, người chia sẻ tầm nhìn ‘cứu thế’ và lối sống xa hoa với ông. Trong những năm gần đây, Putin thậm chí đã thành công trong việc xuất khẩu thương hiệu phi tự do đặc biệt của mình đến nhiều nơi, chẳng hạn như Mặt trận Quốc gia ở Pháp, Đảng Dân tộc ở Anh, phong trào Jobbik ở Hungary, Đảng Bình minh Vàng ở Hy Lạp, và cả cánh hữu của Đảng Cộng hòa ở Mỹ. Như nhà tư tưởng của Donald Trump, Steve Bannon, đã nói gần đây, “Ukraine thậm chí không phải là một quốc gia”.
Hành động tàn phá Mariupol và nhiều thành phố khác của Ukraine cho thấy rằng đức tin của Putin không chứa đựng lòng thương xót hay sự khiêm tốn. Trong giai đoạn đầu nắm quyền, theo nhà báo Catherine Belton, Putin đã cùng với người bạn tâm giao mà sau này hóa thành ‘kẻ phản diện’ – chủ ngân hàng Sergei Pugachev – đến dự một buổi lễ Chính thống giáo vào Chúa Nhật Thống hối (Forgiveness Sunday), diễn ra ngay trước Mùa Chay. Pugachev, một tín đồ Chính thống giáo, nói với Putin rằng ông nên phủ phục trước vị linh mục, để tỏ thái độ ăn năn. Người ta kể rằng Putin đã đáp “Tại sao tôi phải làm vậy? Tôi là Tổng thống Liên bang Nga. Tại sao tôi phải cầu xin sự tha thứ cơ chứ?”
David Remnick là tổng biên tập của New Yorker từ năm 1998 và phóng viên từ năm 1992. Ông là tác giả cuốn sách “The Bridge: The Life and Rise of Barack Obama”.
Hồi sinh Đế chế: Putin đi theo con đường của Stolypin và Stalin