Nguồn: Roger Cohen, “The Making of Vladimir Putin,” New York Times, 26/03/2022
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Xem thêm: Phần 1
Cuộc đụng độ với phương Tây
Từ năm 2004 trở đi, ngày càng có thể thấy rõ nước Nga của Putin đã trở nên cứng rắn hơn – điều mà cựu Ngoại trưởng Rice gọi là “một cuộc đàn áp, nơi người ta bắt đầu thêu dệt những câu chuyện về tính dễ bị tổn thương và sự lây lan của căn bệnh dân chủ.”
Tổng thống Nga đã loại bỏ các cuộc bầu cử thống đốc khu vực vào cuối năm 2004, biến chức vụ này trở thành một chức vụ được bổ nhiệm bởi Điện Kremlin. Truyền hình Nga ngày càng trở nên giống với truyền hình Liên Xô, vì nội dung tuyên truyền ‘không pha loãng’ của nó.
Năm 2006, Anna Politkovskaya, một nhà báo điều tra từng chỉ trích các hành vi vi phạm nhân quyền ở Chechnya, đã bị sát hại tại Moscow, vào đúng ngày sinh nhật của Putin. Một nhà phê bình Điện Kremlin khác, Alexander Litvinenko, cựu sĩ quan tình báo, người từng gọi Nga là “đất nước mafia,” đã thiệt mạng tại London, sau khi bị gián điệp Nga đầu độc bằng chất phóng xạ.
Đối với Putin, việc NATO mở rộng sang các quốc gia từng là một phần của Liên Xô hoặc thuộc vùng ảnh hưởng sau Thế chiến II của nước này ở Đông Âu, là bằng chứng cho thấy sự phản bội của Mỹ. Nhưng mối đe dọa về một nền dân chủ phương Tây thành công ngay trước cửa nhà dường như đã biến thành mối đe dọa khẩn cấp hơn đối với hệ thống ngày càng đàn áp của ông.
“Cơn ác mộng của Putin không phải là NATO, mà là nền dân chủ.” Joschka Fischer, cựu Ngoại trưởng Đức, người từng gặp Putin nhiều lần, cho biết. “Đó là các cuộc cách mạng màu, là hàng nghìn người đổ xuống các đường phố của Kyiv. Một khi ông ấy đã chấp nhận hệ tư tưởng đế quốc, quân sự làm nền tảng cho Nga với tư cách là một cường quốc thế giới, thì ông ấy không thể dung thứ cho điều này.”
Putin gọi một Ukraine ngả về phương Tây là mối đe dọa an ninh đối với nước Nga, nhưng đúng hơn, đó là mối đe dọa đối với hệ thống độc tài của chính ông. Radek Sikorski, cựu Ngoại trưởng Ba Lan, nói: “Putin đã đúng khi cho rằng một Ukraine dân chủ hòa nhập với châu Âu và thành công là mối đe dọa mang tính sống còn đối với chủ nghĩa Putin. Vấn đề nằm ở chỗ đó, chứ không đơn thuần chỉ là tư cách thành viên NATO.”
Tổng thống Nga không dễ bề chấp nhận những mối đe dọa sinh tử, dù là thực tế hay tưởng tượng. Nếu có ai đó nghi ngờ sự tàn nhẫn của Putin, họ được sáng mắt vào năm 2006. Sự ghê tởm tính yếu đuối của ông đã hình thành nên xu hướng bạo lực. Thế nhưng, các nền dân chủ phương Tây lại chậm tiếp thu bài học cơ bản này.
Họ cần Nga, không chỉ vì dầu mỏ và khí đốt. Tổng thống Nga, người đầu tiên gọi điện cho Tổng thống Bush sau vụ 11/9, là một đồng minh tiềm năng quan trọng trong cái gọi là Cuộc chiến Chống Khủng bố Toàn cầu. Nó cũng phù hợp với cuộc chiến của chính Putin ở Chechnya và xu hướng coi mình là một phần trong cuộc chiến văn minh nhân danh Thiên Chúa giáo.
Nhưng Putin không mấy thoải mái với “chương trình nghị sự về tự do” của Bush, được công bố trong lần tái đắc cử vào tháng 01/2005, một cam kết thúc đẩy dân chủ trên toàn thế giới trong nỗ lực theo đuổi tầm nhìn tân bảo thủ. Putin giờ đây đã nhìn thấy bàn tay của Mỹ đằng sau những vụ ‘khuấy động’ tự do. Và tại sao Bush sẽ không đưa Nga vào chương trình đầy tham vọng của mình?
Đến Moscow năm 2005 với tư cách Đại sứ Mỹ, William Burns, hiện là Giám đốc CIA, đã gửi về một bức điện tỉnh táo, xua tan mọi lạc quan thời hậu Chiến tranh Lạnh. “Nước Nga quá lớn, quá tự hào, và quá tự ý thức về lịch sử của mình để có thể nằm gọn trong một ‘châu Âu toàn vẹn và tự do’”, ông viết. Khi kể lại trong cuốn hồi ký của mình, The Back Channel, Burns nói thêm rằng “sở thích đóng vai Cường quốc đặc biệt” của người Nga “đôi khi sẽ gây ra những vấn đề nghiêm trọng”.
Khi François Hollande, cựu Tổng thống Pháp, gặp Putin vài năm sau đó, ông đã rất ngạc nhiên khi thấy Tổng thống Nga gọi người Mỹ là “Yankees” (“bọn Mẽo”) – một cách gay gắt. Bọn Yankees này đã “sỉ nhục chúng ta, đẩy chúng ta xuống hàng thứ hai,” Putin nói. NATO là một tổ chức “tự bản chất là hiếu chiến,” được Mỹ sử dụng để gây áp lực với Nga, thậm chí là để khơi mào các phong trào dân chủ.
“Ông ấy thể hiện bản thân một cách lạnh lùng và đầy toan tính,” Hollande nói. “Ông ta là một người đàn ông luôn muốn thể hiện một loại quyết tâm không gì lay chuyển được, nhưng đồng thời cũng bộc lộ sự quyến rũ, dịu dàng. Một giọng điệu dễ chịu xen kẽ với những lúc bộc phát tàn bạo, theo đó mang lại hiệu quả cao hơn.”
Càng được đảm bảo về quyền lực, Putin càng quay lại thái độ thù địch với nước Mỹ mà ông giúp tạo nên. Việc NATO không kích Belgrade năm 1999 trong Chiến tranh Kosovo và cuộc xâm lược của Mỹ vào Iraq năm 2003, đã khiến ông mất lòng tin vào những lời viện dẫn Hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế của Mỹ. Tin tưởng vào chủ nghĩa biệt lệ Nga, vào số phận không thể tránh khỏi là trở thành một cường quốc, ông không thể chấp nhận chủ nghĩa biệt lệ của Mỹ – nhận thức rằng Mỹ thể hiện quyền lực của mình ở mọi nơi nhân danh một định mệnh duy nhất, một sứ mệnh cố hữu, là truyền bá tự do trong một thế giới nơi Mỹ là bá chủ duy nhất.
Hận thù cuối cùng đã xuất hiện trong bài phát biểu dữ dội của Putin vào năm 2007, tại Hội nghị An ninh Munich. “Một quốc gia, tất nhiên đó là Mỹ, đã vượt quá biên giới quốc gia của mình theo mọi cách,” ông tuyên bố trước nhóm khán giả còn đang sửng sốt. Một “thế giới đơn cực” đã được áp đặt sau Chiến tranh Lạnh với chỉ “một thẩm quyền trung tâm, một trung tâm sức mạnh, một trung tâm ra quyết định.”
Kết quả là hình thành một thế giới “trong đó chỉ có một ông chủ, một chủ quyền, và điều đó quả thật độc ác.” Nhưng hơn cả sự độc ác, nó còn “cực kỳ nguy hiểm”, dẫn đến “thực tế là không ai cảm thấy an toàn.”
Mối đe dọa từ việc NATO mở rộng
Sau bài phát biểu tại Munich, người Đức vẫn còn hy vọng vào Putin. Merkel, người lớn lên ở Đông Đức, biết nói tiếng Nga, đã nỗ lực xây dựng quan hệ với ông. Putin cho hai con theo học trường tiếng Đức ở Moscow sau khi trở về từ Dresden. Ông cũng thích trích dẫn những bài thơ của các tác giả người Đức. Heusgen, cố vấn ngoại giao hàng đầu của Merkel, tiết lộ: “Có một sự đồng cảm. Một sự thấu hiểu.”
Tuy nhiên, làm việc cùng Putin không có nghĩa là chỉ huy ông ấy. “Chúng tôi tin tưởng sâu sắc rằng việc đưa Gruzia và Ukraine vào NATO là không hay,” Heusgen nói: “Họ sẽ mang đến bất ổn.” Điều 10 của Hiệp ước NATO, như Heusgen lưu ý, nói rằng bất kỳ thành viên mới nào cũng phải có khả năng “đóng góp cho an ninh của khu vực Bắc Đại Tây Dương.” Hai nước này sẽ làm điều đó như thế nào là điều mà Merkel chưa rõ.
Về phía Mỹ, khi nhiệm kỳ tổng thống của Bush bước sang năm cuối cùng, nước này không có tâm trạng để thỏa hiệp. Bush muốn có một “Kế hoạch Hành động về Tư cách Thành viên” (Membership Action Plan, MAP), cho Ukraine và Gruzia, một cam kết cụ thể để đưa hai nước vào liên minh, được công bố tại hội nghị thượng đỉnh NATO tháng 04/2008 ở Bucharest. Sự mở rộng của NATO đã đảm bảo an ninh và tự do cho 100 triệu người châu Âu được giải phóng khỏi ách toàn trị của Liên Xô; nó không nên bị dừng lại.
Burns, với tư cách là đại sứ, đã phản đối. Trong một bức điện mật gửi cho Rice, ông viết: “Việc Ukraine gia nhập NATO là lằn ranh đỏ nhất trong các lằn ranh đỏ của giới tinh hoa Nga (chứ không chỉ riêng Putin). Trong hơn hai năm rưỡi trò chuyện với những nhân vật chủ chốt của Nga, từ những kẻ đầu đất ngồi trong góc khuất của Điện Kremlin, đến những người chỉ trích theo chủ nghĩa tự do có đầu óc sắc bén nhất của Putin, tôi vẫn chưa tìm thấy ai xem việc Ukraine tham gia NATO là một thứ gì khác, ngoài một đe dọa trực tiếp đến lợi ích của Nga.”
Tháng 02/2008, Mỹ và nhiều đồng minh đã công nhận nền độc lập của Kosovo đối với Serbia, một tuyên bố đơn phương bị Nga cho là bất hợp pháp, và bị coi là hành động sỉ nhục một quốc gia Slav. Bermann, cựu Đại sứ Pháp tại Moscow, hồi tưởng lại những lời cảnh báo khi đó của Ngoại trưởng Nga Sergey V. Lavrov: “Cẩn thận đấy, việc này là tiền lệ, nó sẽ được sử dụng để chống lại các người.”
Tại Bucharest, Pháp cùng Đức đã phản đối kế hoạch MAP cho Gruzia và Ukraine. “Người Đức không muốn gì cả.” Rice hồi tưởng, “Họ nói rằng, bà không thể chấp nhận một quốc gia có xung đột còn đang đóng băng như Gruzia” – ám chỉ bế tắc căng thẳng giữa Gruzia và hai nước cộng hòa ly khai tự xưng, do Nga hậu thuẫn, là Nam Ossetia và Abkhazia.
Sikorski, Ngoại trưởng Ba Lan, đã vặn lại: “Các người cũng đã là một cuộc xung đột đóng băng suốt 45 năm còn gì!”
Thỏa hiệp sau cùng là một mớ hỗn độn. Tuyên bố của các nhà lãnh đạo NATO cho biết Ukraine và Gruzia “sẽ trở thành thành viên của NATO.” Nhưng tổ chức này lại không chịu thông qua bản kế hoạch hành động có thể làm cho tư cách thành viên đó trở thành hiện thực. Ukraine và Gruzia bị bỏ lại cùng một lời hứa suông, bị gắn chặt vào một vùng đất không người chiến lược, còn Nga thì tức giận nhưng cũng nhận ra sự chia rẽ mà sau này họ có thể khai thác.
Thomas Bagger, cố vấn ngoại giao cấp cao của Tổng thống Đức, chia sẻ, “Ngày nay, chúng ta nhìn lại tuyên bố ấy và nghĩ rằng đó là điều tồi tệ nhất ở mọi thế giới”.
Putin đã đến Bucharest và trình bày điều mà Rice mô tả là “một bài phát biểu đầy cảm xúc,” rằng Ukraine là một quốc gia được dựng lên, rằng có sự hiện diện của 17 triệu người Nga tại đây, và rằng Kyiv là mẹ của tất cả các thành phố Nga – một tuyên bố sẽ dần phát triển thành một nỗi ám ảnh.
Đối với Sikorski, bài phát biểu của Putin không phải chuyện gì đáng ngạc nhiên. Năm đó, ông đã nhận được một lá thư từ Vladimir V. Zhirinovsky, một người Nga theo chủ nghĩa dân tộc, khi ấy đang là Chủ tịch Duma Quốc gia, đề nghị rằng Ba Lan và Nga đơn giản là nên chia nhau Ukraine. “Tôi đã không hồi đáp,” Sikorski nói. “Chúng tôi không làm trong ‘ngành’ thay đổi biên giới.”
Bất chấp những khác biệt này, Putin vẫn chưa chuyển sang thái độ thù địch hoàn toàn. Tổng thống Bush và Ngoại trưởng Rice vẫn tới thăm khu nghỉ dưỡng Sochi nằm trên Bờ Biển Đen mà Putin ưa thích.
Tổng thống Nga khoe với cả hai về những địa điểm được lên kế hoạch cho Thế vận hội Mùa đông 2014. Ông cũng giới thiệu họ với Dmitri A. Medvedev, một cộng sự lâu năm, người sẽ trở thành tổng thống vào tháng 5, như một phần của chiến dịch được dàn xếp kỹ càng, nhằm tôn trọng giới hạn về nhiệm kỳ trong hiến pháp của Nga, nhưng cho phép Putin trở lại Điện Kremlin vào năm 2012 sau thời gian làm thủ tướng.
Ở đó còn có những vũ công Cossack. Một vài người Mỹ đã bước lên sàn nhảy và bầu không khí thật tuyệt.
Ba tháng sau, một cuộc chiến kéo dài 5 ngày nổ ra ở Gruzia. Người Nga gọi đây là hoạt động “thực thi hòa bình.” Sau khi kích động để quân Gruzia tấn công các lực lượng ủy nhiệm của họ ở Nam Ossetia, Nga chính thức xâm lược Gruzia. Mục tiêu chiến lược của họ là vô hiệu hóa mọi tham vọng trở thành thành viên NATO của Gruzia, và họ đã làm được điều đó. Moscow công nhận nền độc lập của Abkhazia và Nam Ossetia, rồi sáp nhập cả hai vào Nga.
Một cách cố ý, Putin đã vạch ra ranh giới đầu tiên trên cát, nhưng không có phản ứng có ý nghĩa nào từ phương Tây.
Chúng ta và Bọn họ
Ngày 07/05/2012, trong lúc 30 phát súng chào mừng vang lên khắp Moscow và các sĩ quan cảnh sát chống bạo động trong trang phục rằn ri vây bắt những người biểu tình, Putin đã trở lại cương vị Tổng thống Nga. Cực kỳ căng thẳng và ngày càng tin vào thói bội tín và suy đồi của phương Tây, ông là một người đã hoàn toàn thay đổi, xét về nhiều mặt.
Làn sóng biểu tình đường phố bùng phát 5 tháng trước đó, với hình ảnh những người tuần hành mang theo khẩu hiệu “Putin là một tên trộm”, đã củng cố niềm tin của ông rằng người Mỹ đang quyết tâm mang lại một cuộc cách mạng màu cho nước Nga. Biểu tình nổ ra sau khi cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 12/2011 bị giới quan sát trong nước và quốc tế coi là gian lận. Nhưng tình trạng bất ổn cuối cùng đã bị dẹp tan.
Putin cáo buộc Ngoại trưởng Hillary Clinton là người chủ mưu chính. “Bà ta đã mớm lời cho một vài người ở đất nước chúng tôi và cho họ một tín hiệu,” ông nói. Clinton đáp trả, theo tinh thần các giá trị của Mỹ, rằng “chúng tôi bày tỏ lo ngại mà chúng tôi cho là có cơ sở vững chắc về quá trình tiến hành cuộc bầu cử.”
Thật là một đòn chí mạng lên những nỗ lực của chính quyền Obama nhằm “cài đặt lại” quan hệ với Nga suốt 4 năm qua cầm quyền của Medvedev – một người tuy ôn hòa hơn, nhưng lại luôn hàm ơn Putin.
Tuy nhiên, ý kiến cho rằng Putin có thể là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với lợi ích của Mỹ phần lớn đã bị bác bỏ, vì Washington còn bận tâm với việc đánh bại Al Qaeda. Khi Thống đốc Mitt Romney nói rằng mối đe dọa địa chính trị lớn nhất mà Mỹ phải đối mặt là Nga, ông đã bị Tổng thống Obama chế nhạo.
“Chiến tranh Lạnh đã qua 20 năm rồi,” Obama nói với vẻ khinh thường trong một cuộc tranh luận tổng thống năm 2012.
Dưới áp lực từ Mỹ, Nga đã bỏ phiếu trắng trong một cuộc bỏ phiếu của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc vào năm 2011 về việc can thiệp quân sự vào Libya, vốn cho phép “thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết” để bảo vệ dân thường. Khi nhiệm vụ này chuyển thành kế hoạch lật đổ Đại tá Muammar el-Qaddafi, người sau cùng bị các lực lượng Libya giết hại, Tổng thống Nga đã nổi giận. Lại một bằng chứng khác cho thấy sự thiếu tôn trọng luật pháp quốc tế của Mỹ.
Một điều gì đó khác cũng đang diễn ra. “Ông ấy bị ám ảnh bởi vụ hạ sát tàn bạo Qaddafi,” Mark Medish, quản lý cấp cao phụ trách các vấn đề Nga, Ukraine, và Á-Âu tại Hội đồng An ninh Quốc gia của chính quyền Clinton, nói. “Tôi được thông tin rằng ông đã phát lại video hết lần này đến lần khác.” Hành động loại bỏ một nhà độc tài là một điều liên quan gần gũi với cá nhân ông.
Michel Duclos, cựu Đại sứ Pháp tại Syria và hiện là cố vấn đặc biệt của viện chính sách Montaigne ở Paris, cho rằng “lựa chọn tái phân cực” dứt khoát của Putin đã đến vào năm 2012. Trung Quốc đã trỗi dậy và đem đến các lựa chọn chiến lược mới. “Ông ấy tin rằng phương Tây đã suy tàn sau khủng hoảng tài chính năm 2008,” Duclos nói. “Con đường phía trước sẽ là đối đầu.”
Trong cuộc đụng độ này, Putin đã trang bị cho mình đội quân tiếp viện về văn hóa và tôn giáo. Ông khẳng định mình là hiện thân cho những giá trị bảo thủ của Chính thống giáo, chống lại chủ trương phi tôn giáo của phương Tây về hôn nhân đồng giới, nữ quyền cấp tiến, đồng tính luyến ái, nhập cư ồ ạt, cùng các biểu hiện khác của “sự suy đồi.”
Theo lời Putin, Mỹ và các đồng minh đang nuôi dưỡng ý định toàn cầu hóa những giá trị mang tính lật đổ này, dưới vỏ bọc thúc đẩy dân chủ và nhân quyền. Nước Nga Thánh thiêng sẽ chống lại sự đồng nhất hóa nguy hiểm này. Chủ nghĩa Putin, lúc này đã thành hình, sẽ kiên quyết chống lại một phương Tây vô thần và giả tạo. Một lần nữa, Moscow lại có một ý thức hệ cho riêng mình. Nó là một kiểu phản kháng bảo thủ, và đã thu hút các nhà lãnh đạo cực hữu trên khắp châu Âu và xa hơn thế.
Có vẻ như nó cũng phản ánh một điều gì đó khác nữa. Trong bộ phim tài liệu của Oliver Stone, Putin được hỏi liệu ông có bao giờ có “những ngày tồi tệ” hay không, câu trả lời của ông là: “Tôi đâu phải phụ nữ, nên tôi chẳng có ngày tồi tệ nào cả.” Bị Stone hỏi dồn thêm chút nữa, Tổng thống Nga đáp, “Đơn giản là bản chất sự việc như thế mà thôi.”
Tiếp đến, Stone hỏi về những người đồng tính và quân đội. “Giả sử ông phải tắm trong một chiếc tàu ngầm cùng với một người đàn ông khác, và ông biết rõ anh ấy là người đồng tính, vậy ông có vấn đề gì với chuyện đó không?” Putin trả lời, “Chà, tôi sẽ không đi tắm cùng anh ta đâu. Sao phải khiêu khích anh ta chứ? Nhưng mà ông biết đấy, tôi là một cao thủ judo.”
Câu này, rõ ràng, là một câu nói đùa.
Nhưng Putin không nói đùa về thách thức bảo thủ ông dành cho văn hóa phương Tây. Nó cho phép ông phát triển nhóm ủng hộ của riêng mình tại châu Âu, giữa các đảng cực hữu như Đảng Mặt trận Quốc gia Pháp (French National Rally/National Front), vốn đã nhận một khoản vay từ một ngân hàng Nga. Chủ nghĩa dân tộc chuyên chế đã hồi sinh sức hấp dẫn của nó, thách thức chủ nghĩa tự do dân chủ mà nhà lãnh đạo Nga tuyên bố là “lỗi thời” vào năm 2019.
Một số nhà văn và nhà sử học theo chủ nghĩa phát xít hoặc chủ nghĩa dân tộc với những tư tưởng thần bí về vận mệnh và số phận của nước Nga, nổi bật trong số đó là Ivan Ilyin, ngày càng ảnh hưởng đến lối suy nghĩ của Putin. Ilyin coi người lính Nga là “ý chí, sức mạnh, và danh dự của nhà nước Nga,” và đã viết, “Lời cầu nguyện của tôi giống như một thanh gươm. Và thanh gươm của tôi giống như một lời cầu nguyện.” Putin thường xuyên trích dẫn lời ông ta.
“Vào thời điểm Putin trở lại Điện Kremlin, ông ấy đã tạo ra một ý thức hệ, một vỏ bọc tinh thần cho chế độ đạo tặc của mình,” theo lời sử gia Snyder. “Nga hiện đã mở rộng phạm vi mà nhà lãnh đạo của họ được quyền quyết định. Tất cả đều là vì nước Nga vĩnh cửu, một phiên bản tổng hợp của 1.000 năm qua. Ukraine là của chúng ta, luôn luôn là của chúng ta, vì Chúa đã nói như vậy, còn đừng bận tâm đến sự thật.”
Trong chuyến công du đến Kyiv vào tháng 07/2013, chuyến thăm nhân kỷ niệm 1.025 năm ngày Hoàng tử Vladimir của Kyivan Rus cải đạo sang Thiên Chúa giáo, Putin thề sẽ bảo vệ “Tổ quốc chung của chúng ta, Đại Rus.” Sau đó, ông cho dựng một bức tượng của Vladimir ngay trước Điện Kremlin.
Tuy nhiên, đối với Ukraine, một sự “bảo vệ” như vậy từ Nga chẳng khác nào một mối đe dọa được che đậy sơ sài, bất chấp những liên hệ sâu rộng về văn hóa, ngôn ngữ, và máu mủ giữa hai quốc gia.
Sikorski, cựu Ngoại trưởng Ba Lan, nói rằng “Ba Lan đã bị Nga xâm lược nhiều lần. Nhưng hãy nhớ, người Nga không bao giờ xâm lược. Họ chỉ đến hỗ trợ các nhóm thiểu số nói tiếng Nga đang gặp nguy hiểm mà thôi.”
(Còn tiếp 1 phần)