Giáo sư Ngô Vĩnh Long qua đời ở tuổi 78

Nguồn: Seth Mydans, “Ngo Vinh Long, Lightning Rod for Opposing the Vietnam War, Dies at 78,” New York Times, 23/10/2022

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Sau khi thoát khỏi nguy cơ bị bắt ở Việt Nam vì quan điểm phản chiến, Ngô Vĩnh Long trở thành người Việt phản chiến nổi bật nhất tại Mỹ.

Ngô Vĩnh Long là một học giả người Mỹ gốc Việt tích cực tham gia chính trị, đồng thời là một cây bút rất sung sức. Trong và sau Chiến tranh Việt Nam, tính thẳng thắn đã khiến ông thường xuyên bị đe dọa và thậm chí đã có lần bị ám sát hụt. Ngày 12/10 vừa rồi, ông qua đời tại Bệnh viện Thánh Joseph ở Bangor, Maine, hưởng thọ 78 tuổi.

Nguyên nhân là bệnh ung thư gan – Ngô Vĩnh Hội, con trai ông – cho biết.

Trước khi trở thành giáo sư sử học tại Đại học Maine, Ngô Vĩnh Long là sinh viên Việt Nam đầu tiên theo học tại Đại học Harvard vào những năm 1960, sau khi tránh được việc bị bắt giữ ở Việt Nam, nơi ông đã khiến chính quyền Nam Việt Nam tức giận vì dám lên tiếng và biểu tình phản đối chiến tranh.

Trong những thập niên sau đó, ông tiếp tục hoạt động chính trị tại Mỹ và đã bị tấn công bởi những lời chỉ trích gay gắt mà ông cho rằng đã gây đau đớn và làm tổn hại đến sự nghiệp của ông.

Ngô Vĩnh Long đã thu hút sự chú ý ngay khi ông hạ cánh xuống Sân bay Quốc tế Logan ở Boston vào tháng 10/1964, khi ông cảnh báo các phóng viên rằng, dù có mất bao lâu đi chăng nữa, “người Việt Nam cũng sẽ không nhượng bộ”.

Đó là những lời lẽ khiêu khích và mang tính dự báo trong những năm đầu của cuộc chiến, và ông đã nhanh chóng trở thành người Việt Nam nổi bật nhất tại Mỹ trong chiến dịch phản chiến.

Ông bắt đầu đi diễn thuyết khắp nước Mỹ ngay trong năm đầu tiên đến Harvard, theo một chương trình giảng dạy về phản chiến, tham gia nhiều buổi diễn thuyết (teach-ins) với hai nhà hoạt động nổi tiếng Howard Zinn và Noam Chomsky.

“Ông ấy nói và viết để phản đối chiến tranh vào thời điểm thậm chí còn chưa có nhiều người Việt Nam sống ở Mỹ,” sử gia Christian G. Appy viết về Ngô Vĩnh Long trong cuốn lịch sử truyền miệng, Patriots: The Vietnam War Remembered From All Sides (Những người yêu nước: Chiến tranh Việt Nam từ mọi góc nhìn)

Chưa đầy một năm sau khi đến Mỹ, Ngô Vĩnh Long đã hỗ trợ các sinh viên Harvard tham gia một cuộc biểu tình phản chiến lớn ở Washington, D.C.

Sau đó, khi vẫn còn là nghiên cứu sinh, vào tháng 02/1972, ông tham gia vụ chiếm đóng lãnh sự quán Việt Nam Cộng hòa tại New York.

Tại Harvard, ông có các buổi thảo luận riêng với hai giáo sư, Samuel Huntington và Henry Kissinger, những người đóng vai trò nổi bật trong việc hoạch định chính sách của Mỹ ở Việt Nam, thách thức quan điểm ủng hộ chiến tranh của họ.

“Tôi đã cố gắng chứng minh với họ rằng Mỹ chỉ có thể thắng cuộc chiến bằng cách hủy diệt Việt Nam hoàn toàn, và họ không nên làm điều đó,” ông nói với Appy. “Cả Huntington và Kissinger đều nói, ‘Long, cậu thực sự quá ngây thơ. Mỗi quốc gia, giống như mỗi con người, đều có ngưỡng chịu đựng, Việt Nam cũng vậy thôi.’’”

Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, khi hàng trăm ngàn người Việt tị nạn tràn đến Mỹ, Ngô Vĩnh Long đã trở thành mục tiêu bị chính những đồng bào Việt Nam của ông đe dọa, một vài người trong nhóm này cáo buộc ông ủng hộ chính quyền Cộng sản Việt Nam.

Năm 1981, trong một buổi nói chuyện tại Harvard về Việt Nam thời hậu chiến, hàng trăm người Mỹ gốc Việt đã tụ tập để lên án và ném bom xăng vào Ngô Vĩnh Long, nhưng may là chúng không phát nổ. Vị giáo sư liên tục nhận những lời dọa giết, và trong suốt một năm sau đó, ông đã phải liên tục thay đổi nơi ở.

Lời lẽ của Ngô Vĩnh Long dường như có chủ đích kích động.

“Chính phủ này đã trở thành một trong những chế độ đàn áp nhất trên thế giới, vì những tội ác mà họ đang gây ra ở Việt Nam,” ông nói tại một cuộc biểu tình ở Đại học Nam Illinois vào ngày 28/04/1972, nơi ông được ‘chào đón’ bằng những câu khẩu hiệu như “Đả đảo Ngô Vĩnh Long!”

“Tôi đã trở thành tâm điểm của tất cả những sự thù hận và những vụ tấn công,” ông nói trong một cuộc phỏng vấn với Writing Vietnam, một hội thảo tổ chức vào năm 1999 tại Đại học Brown. “Vậy nên, trong 20 năm tiếp theo, từ 1975 đến 1995, cuộc sống của tôi là địa ngục.”

Ông nói rằng những lời chỉ trích đã làm tổn hại đến sự nghiệp của mình, nhưng “đó là cái giá mà bạn phải trả khi bạn muốn trở nên có ích”.

Ngô Vĩnh Long sinh ngày 10/10/1944, tại tỉnh Vĩnh Long, miền Nam Việt Nam, và được đặt tên theo nơi sinh của ông. Cha ông, Ngô Ngọc Tùng, là nhân viên đường sắt, người đã cùng với mẹ ông, Hồ Thị Ngọc Viên, kêu gọi phản đối chiến tranh.

Cha mẹ ông thường xuyên phải trốn chạy, để cậu con trai Long chăm sóc cho 7 đứa em của mình. Tám anh em đã phải vật lộn để tự kiếm ăn, “có lẽ đó là lý do tại sao tôi thấp hơn bố tôi khoảng 15 – 18 cm.”

Ông cho biết, hồi năm lên sáu, ông đã cùng cha đi bộ 160 km đến thủ đô Sài Gòn để tìm những cuốn sách viết bằng tiếng Anh. Họ đã mua tiểu thuyết của Charles Dickens, sau đó quay về nhà và dành một năm để đọc hết cuốn “Những kỳ vọng lớn lao.”

“Chúng tôi đã học thuộc từng từ, từng câu, từng trang,” ông chia sẻ trong cuốn lịch sử truyền miệng. “Đó là cách tôi học tiếng Anh.”

Năm 16 tuổi, Ngô Vĩnh Long được thuê để đi khắp Việt Nam, cùng với một nhóm làm bản đồ cho quân đội Mỹ.

Sự tàn phá và bất công mà ông chứng kiến đã khiến ông chống lại chiến tranh, và vào năm 1962, ông từ chức và tham gia một phong trào phản chiến của sinh viên. Đối mặt với nguy cơ bị bắt, ông đã viện đến sự giúp đỡ của các quan chức Mỹ mà ông kết bạn để có được thị thực xuất cảnh rời Việt Nam.

Để duy trì tư cách sinh viên, theo đó cho phép ông ở lại Mỹ, Ngô Vĩnh Long đã trì hoãn việc hoàn thành chương trình học của mình tại Harvard, mãi đến năm 1978 mới lấy bằng Tiến sĩ về Lịch sử Đông Á và Ngôn ngữ Viễn Đông. Ông trở thành thường trú nhân Mỹ vào năm 1976, sau đó trở thành công dân Mỹ vào năm 1991.

Năm 1985, ông bắt đầu công việc giảng dạy toàn thời gian đầu tiên của mình, là giáo sư lịch sử tại Đại học Maine, đồng thời vẫn phát biểu và xuất bản về các vấn đề liên quan đến Việt Nam và khu vực.

Trong số hàng trăm công trình đã xuất bản của ông có các chuyên khảo như Before the Revolution: The Vietnamese Peasants Under the French (Trước Cách mạng: Nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc) và Vietnamese Women in Society and Revolution: The French Colonial Period (Phụ nữ Việt Nam trong xã hội và cách mạng: Thời kỳ Pháp thuộc.)

Ông đã gặp và kết hôn với người vợ đầu tiên của mình, Nguyễn Hội Chân, khi đang học tại Harvard, còn bà là một sinh viên Việt Nam tại Đại học Radcliffe. Họ ly hôn vào năm 1992. Năm 1998, ông kết hôn với người vợ thứ hai, Nguyễn Mai Hương, và sống cùng bà cho đến nay.

Những người còn lại trong gia đình ông gồm Ngô Vĩnh Hội, con trai, và Ngô Thái Ân, con gái, từ cuộc hôn nhân đầu tiên, cùng với hai con trai từ cuộc hôn nhân thứ hai, Ngô Vĩnh Thiện và Ngô Vĩnh Nhân; ngoài ra còn có hai người cháu.

Trong những năm qua, Giáo sư Ngô Vĩnh Long thường xuyên về Việt Nam giảng dạy và thuyết trình. Trong năm học 2000-2001, ông đã giảng dạy một số khóa học tại Hà Nội với tư cách là học giả Fulbright.

Trong bài đăng cuối cùng của mình trên Facebook, chỉ 11 ngày trước khi mất, ông mô tả lại một căn bệnh về mắt chưa được chẩn đoán, vốn đã khiến ông giảm thị lực.

“Cái khổ là mùa thu nầy lá cây sẽ rất rực rỡ, nhưng tôi không biết tôi có thể đi chụp ảnh hay không,” ông viết.

Seth Mydans là phóng viên của The New York Times và The International Herald Tribune từ năm 1983 đến năm 2012. Hiện ông vẫn viết bài cho The New York Times.