Độc tài, “hóa rồng” và dân chủ ở Đài Loan (P1)

Tác giả: Hồ Sĩ Quý*

Lời BBT: Đài Loan cùng với Hàn Quốc là hai xã hội thành công nhất của thế kỷ 20. Cả hai đất nước những năm 50 (thế kỷ 20) đều ở tình trạng thiếu tài nguyên với hàng triệu người sống ở mức nghèo đói, nhưng sau khoảng 30 năm đã “cất cánh”, hoá rồng và dân chủ hóa. Điều thần kỳ về kinh tế Đài Loan được coi là kém ngoạn mục so với điều thần kỳ về đời sống xã hội. Chính quyền nhận ra giá trị của dân chủ và có ý thức cải biến xã hội. Các lực lượng chính trị cố gắng chuyển đổi xã hội trong khuôn khổ một trật tự ôn hòa, cải cách, chứ không cách mạng. Người dân được làm quen với các giá trị dân chủ và chẳng bao lâu đã làm chủ được giá trị dân chủ. Nền kinh tế – xã hội phát triển năng động, biết phát huy nguồn lực con người đã dẫn đến sự xuất hiện tầng lớp trung lưu quan tâm đến văn hóa, văn minh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Một xã hội tôn trọng học vấn, có nền giáo dục tiên tiến, có trình độ nguồn nhân lực cao và đồng đều, có nền văn hóa kết hợp được truyền thống và hiện đại.

Một xã hội có chính thể tiếp thu được áp lực quốc tế, chuyển từ độc đoán, độc tài sang thể chế dân chủ và đã ghi được những tư tưởng này vào Hiến pháp. Một xã hội có tầng lớp lãnh đạo có trách nhiệm, dám quyết định; chính phủ sẵn sàng với mọi trách nhiệm quốc gia và quốc tế. Một xã hội dân sự đủ trưởng thành, gánh được các trách nhiệm dân sự, điều tiết được các hoạt động xã hội theo hướng lành mạnh. Một xã hội có pháp luật nghiêm và tương đối công bằng, không chùn bước trước tham nhũng, không nương nhẹ với chủ nghĩa tư bản thân hữu, kiểm soát được tội phạm và tệ nạn xã hội. Một xã hội mà về đại thể, quần chúng nhân dân trở thành một lực lượng chính trị ôn hòa, đấu tranh bất bạo động cho các mục tiêu tiến bộ v.v.

Bài viết này cố gắng đề cập đến gần hết những điều nói nói trên thông qua phân tích các sự kiện đã diễn ra ở Đài Loan từ những năm 50 đến những năm 90 của thế kỷ 20.

Trước khi đăng tạp chí, bài viết đã được GS.TS. Trần văn Đoàn, Đại học Quốc gia Đài Loan, người đã chứng kiến và trực tiếp tham gia nhiều sự kiện được nhắc tới trong bài, đọc, góp ý và chỉnh sửa.

***

Từ năm 1949, khi Tưởng Giới Thạch bỏ Trung Quốc đại lục chạy ra Đài Loan, khả năng duy trì sự tồn tại của chế độ chính trị riêng biệt ở hòn đảo này nghiễm nhiên trở thành vấn đề thường trực và ảnh hưởng đáng kể đến không khí chính trị thế giới.

Với diện tích 36.008 km2, Đài Loan quá nhỏ so với Trung Quốc đại lục, nguy cơ bị “giải phóng” là nỗi quan ngại ám ảnh đối với chính thể đảo này suốt hơn nửa thế kỷ nay. Đó là một nhân tố chính trị khắc nghiệt quy định sự phát triển của Đài Loan. Tuy nhiên, sự “chống lưng” của Mỹ với hạm Đội 7 có mặt ngoài eo biển Đài Loan ngay từ sau chiến tranh Triều tiên 1953 và đặc biệt, “Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ – Đài Loan” 12/1954, chính là lý do cân não khiến mọi kế hoạch “thu hồi Đài Loan” của đại lục từ đó đến nay vẫn “chưa có cơ hội” để thực hiện.[1] Có thể nói, việc đánh giá vị thế của Đài Loan trong sự phát triển thế giới sẽ còn là vấn đề gây tranh cãi. Cả Trung Quốc và Mỹ, trong thế kỷ 20, đã sử dụng Đài Loan như một “nước cờ” lợi hại. Mỹ đã dùng Đài Loan để kiềm chế Trung Quốc không thể nói là kém thành công. Ngược lại, sau những thất bại chiếm đóng lúc ban đầu, Trung Quốc cũng bắt đầu “thủ lợi” không ít trong vấn đề Đài Loan trong những thập niên gần đây. Riêng Đài Loan, ý thức được thế ngặt nghèo, đã biết làm thế nào để giữ được độc lập, làm nên một Đài Loan hiện đại, dân chủ và thịnh vượng, một “con rồng” châu Á.

Trước khi để mất Trung Quốc đại lục, chính quyền Tưởng Giới Thạch (1928-1931 và 1943-1948) cũng đã mang tai tiếng nhiều về tham nhũng và độc tài. Trong chính quyền Tưởng, hầu hết quyền hành và tài sản tập trung trong tay “Tứ đại gia” Tưởng, Tống, Trần, Khổng. Trong đó, có ba gia tộc lớn chồng chéo trong những quan hệ nước – nhà rất đặc biệt: họ Tưởng của Tưởng Giới Thạch, họ Tống của Tống Mỹ Linh cùng anh ruột là Tống Tử Văn (chủ ngân hàng, bộ trưởng tài chính, bộ trưởng ngoại giao, phó thủ tướng chính phủ), và họ Khổng của Khổng Tưởng Hi (nhà tài phiệt ngân hàng, bộ trưởng tài chính một thời gian, bộ trưởng kỹ nghệ, thương mại và lao động, phó thủ tướng chính phủ), chồng của chị ruột đệ nhất phu nhân Tống Mỹ Linh.

Chế độ chính trị mà tổng thống Tưởng Giới Thạch thiết lập tại Đài Loan từ sau 1949 được cả thế giới đánh giá là một chế độ chuyên chế khắc nghiệt. Theo nhiều nhà nghiên cứu phương Tây, nếu lấy tiêu chuẩn mức độ chuyên chế để xem xét, thì từ giữa những năm 80 trở về trước, chế độ chính trị Đài Loan rất gần với chế độ Trung Quốc đại lục và thuộc cùng một kiểu với chế độ chính trị ở Hàn Quốc. Ở Đài Loan khi đó, Quốc dân đảng là đảng duy nhất nắm trọn quyền. Các hình thức đối lập đều bị cấm. Với lý do “Toàn quốc động viên tiễu Cộng phỉ” và chuẩn bị “Quang phục Trung Quốc đại lục”, nhiều điều khoản ghi trong hiến pháp (có từ 1947) không được thi hành. Báo chí, đài phát thanh bị kiểm soát chặt chẽ. Nhân viên an ninh và tình báo hoạt động khắp nơi. Bất kỳ ai chỉ trích chính phủ hay phê bình đường lối chính phủ lập tức bị tống giam hay trục xuất ra khỏi nước. Một thiểu số người Hán, từ Trung Quốc đại lục theo Tưởng Giới Thạch tới, cai trị đa số người bản địa sống tại Đài Loan từ trước. Dân Đài Loan bản xứ bị phân biệt đối xử cả trong chính trị lẫn trong đời sống. Việc con trai Tổng thống Tưởng Giới Thạch là Tưởng Kinh Quốc giữ các chức Chủ tịch Quốc dân đảng, thủ tướng Chính phủ, rồi thay cha được “Quốc hội Vạn niên” bầu vào chức vụ Tổng thống từ 1978, thực chất là chế độ “cha truyền con nối” như dưới thời quân chủ.[2]

Nhưng từ giữa thập niên 1980 trở đi, đời sống chính trị – xã hội ở hòn đảo này đã có những thay đổi năng động và cũng khá bất ngờ. Tình hình chính trị thế giới lúc đó, đặc biệt là sự biến động ở Liên Xô đã ảnh hưởng theo chiều rất đặc biệt đến nhãn quan chính trị của nhiều chính khách ở nhiều chính thể. Ngoài các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa chịu áp lực trực tiếp thì Nam Phi, Israel, Đài Loan… là những nơi cũng chịu ảnh hưởng.[3] Ở Đài Loan, lúc đầu là việc bãi bỏ chế độ quân luật, từng đã bị lạm dụng quá lâu, để thực thi hiến pháp (Hiến pháp 1947), sau đó là việc bỏ chế độ kiểm duyệt, chấp nhận bất đồng chính kiến, cho phép đảng đối lập hoạt động công khai và vận động tranh cử với các quy chế tường minh. Cùng với việc người dân trực tiếp bầu các chức vụ Thị trưởng, Quận trưởng, Tỉnh trưởng…, ngay từ 1986, các ghế nghị sỹ Quốc hội cũng đã có nhiều đảng tranh cử. Và chức vụ Tổng thống cũng được dân chọn bằng lối đầu phiếu trực tiếp phổ thông. Đài Loan đã chính thức bước vào quỹ đạo của các xã hội có thiết chế quản trị của một xã hội dân chủ.

Với trường hợp Đài Loan, nhiều nhà nghiên cứu và bình luận chính trị đã có những phân tích rất sâu và chỉ ra được logic của tiến trình chuyển đổi trong đời sống chính trị ở đây. Trong số các học giả đó, chúng tôi muốn nhắc đến hai trường hợp tương đối điển hình là Điền Hồng Mậu (田弘茂, Tien Hung-mao) và Chu Vân Hán (朱雲漢, Chu Yun-han), những người có nhiều công trình nghiên cứu về Đài Loan trong giai đoạn chuyển đổi, được giới học thuật và các nhà phân tích chính trị trích dẫn nhiều.

Điền Hồng Mậu sinh năm 1950, Giáo sư Đại học quốc gia Đài Loan (NTU), từng dạy học tại Mỹ, hiện là Giám đốc Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Đài Loan (INPR the Institute for National Policy Research). Ông đậu Tiến sỹ Chính trị học Đại học Wisconsin-Madison, Mỹ (1969), và từng là Ngoại trưởng Đài Loan (2000-2002) dưới thời Trần Thủy Biển. Là học giả và là chính khách trong những năm chuyển đổi, Điền Hồng Mậu viết nhiều về quá trình chuyển đổi từ độc tài tới dân chủ ở Đài Loan, và đã nhận được sự quan tâm sâu sắc của các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới; xin đơn cử, “Chính phủ và nền chính trị của Quốc dân đảng Trung Quốc 1927-1937” Government and Politics in Kuomintang China 1927-37 (Stanford University Press, 1973). “Đại Chuyển Giao: sự thay đổi xã hội và chính trị ở Cộng hòa Trung quốc” The Great Transition: Social and Political Change in the Republic of China (Stanford: Hoover Institution Press, 1989); “Dân chủ hoá ở Đài loan, áp dụng cho Trung Quốc” Democratization in Taiwan, Implications for China (St. Anthony’s Series, Oxford University, 1998), “Củng cố làn sóng thứ ba của nền dân chủ: những thách thức khu vực” Consolidating the Third Wave Democracies: Regional Challenges (Baltimore and London: The Johns Hopkins University Press, 1997), “Sự tương tác xuyên eo biển hai thập kỷ qua” The Cross-Strait Interactions in the Past Two Decades (Tiếng Hán, Taipei, 2008).[4]

Chu Vân Hán (Chu Yun-han), sinh năm 1956, Giáo sư Khoa học Chính trị, Đại học Quốc gia Đài Loan (NTU), Viện sĩ Viện Hàn lâm Trung Hoa (Academia Sinica) từ 2012, Tiến sĩ Đại học Minnesota, Mỹ (1987), Giám đốc Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia (INPR) 1994 – 1997, Chủ tịch Quỹ Tưởng Kinh Quốc từ năm 2001, Chủ tịch Hội Khoa học Chính trị 2003-2005, Thành viên Hiệp hội Khoa học chính trị Mỹ (Council of American Political Science Association) 2009-2011. Chu là tác giả của nhiều ấn phẩm, gồm hơn 100 bài báo khoa học và nhiều chuyên khảo có giá trị. Chẳng hạn, “Phác thảo nền dân chủ ở Đài Loan” Crafting Democracy in Taiwan (Taipei: Institute for National Policy Research, 1992); “Củng cố nền dân chủ của làn sóng thứ ba: những xu hướng và thách thức” Consolidating the Third Wave Democracies: Trends and Challenges (Bộ sách lớn gồm nhiều tập do nhiều người viết mà Điền Hồng Mậu cũng là một trong các tác giả, Johns Hopkins University Press, 1997), “Trung Quốc thời Giang Trạch Dân” China Under Jiang Zemin (Boulder: Lynne Reinner Publishers, 2000), “Đông Á nhìn nhận Dân chủ như thế nào” How East Asians View Democracy (Chủ biên, Columbia University Press, 2008).[5]

Hai tác giả Điền Hồng Mậu và Chu Vân Hán đã có những phân tích rất đáng lưu ý về tiến trình dân chủ ở Đài Loan với những lực cản đặc biệt của nó. Tuy Điền Hồng Mậu là người ủng hộ đảng Dân Tiến, trong khi Chu là người của Quốc dân đảng, nhưng cả hai đều cho rằng, so với việc dân chủ hoá từ một chế độ độc tài quân phiệt như ở Mỹ Latinh, quá trình dân chủ hoá từ một chế độ độc đảng phức tạp khó khăn hơn nhiều. Ở các nước Mỹ Latinh, các thống lĩnh quân phiệt sau binh nghiệp có thể lui về với nguyên vẹn cấp bậc và đầy đủ quyền lợi tương xứng ngay cả khi không còn nắm quyền. Ở chế độ Đài Loan một đảng độc quyền, viên chức cao cấp cũng như trung cấp của đảng không hề có vị trí tự nhiên để lui về; bởi sau 50 năm thiếu sự phân định rạch ròi về chức năng, đảng và chính quyền đã gần như chồng chéo vào nhau. Trên thực tế, đảng đã kiểm soát gần như toàn bộ hệ thống hành chính, luật pháp, quân sự, truyền thông…[6]

Do đó, theo nhiều nhà bình luận, việc Đài Loan phát triển mạnh về kinh tế để cùng Hong Kong, Singapore và Hàn Quốc trở thành bốn con rồng châu Á đã là một “phép lạ” (miracle) đáng chú ý. Nhưng việc Đài Loan tiến từ một chế độ độc đảng, gia đình trị và phe nhóm chính trị thành một xã hội dân chủ một cách ôn hòa, để trở thành cộng đồng Trung Hoa đầu tiên có chế độ người dân trực tiếp chọn người lãnh đạo, không chỉ là hình thức (như Singapore), còn là một “phép lạ thứ hai” (Second Taiwan Miracle) đáng lưu ý hơn.[7]

Sau nhiều năm theo dõi những thay đổi chính trị và xã hội tại một số quốc gia Đông Âu, Nam Âu và Mỹ Latinh, hai nhà chính trị học Philippe Schmitter (GS. Khoa Chính trị và Khoa học xã hội, Viện Đại học Châu Âu, EUI), và Terry Lynn Karl (TS. Khoa học nhân văn, Đại học Stanford, California, Mỹ)[8] đã chỉ ra rằng, quá trình dân chủ hóa ở Đài Loan đã diễn ra theo 4 lộ trình và đây là lộ trình rất căn bản: 1/ Hình thành một hệ thống các đảng phái. 2/ Hình thành các hiệp hội, tổ chức xã hội… để đại diện và bênh vực quyền lợi cho các nhóm, các khuynh hướng khác nhau. 3/ Soạn thảo, chấp nhận, hoặc phục hồi một bản Hiến pháp đã có, trên cở sở đó thực hiện tu chính để Hiến pháp phù hợp với điều kiện mới trong tinh thần dân chủ. 4/ Xác định quyền kiểm soát của chính quyền dân sự đối với các cơ cấu quân sự, an ninh hoặc các thế lực kinh tế, tài chính. Các tác giả này còn nhấn mạnh rằng, dân chủ sẽ không hiệu quả và khó bền vững nếu chính quyền dân sự yếu và bất lực. Việc phục tùng một chính quyền như vậy sẽ khiến các lực lượng xã hội dần đánh mất sức mạnh có thể có của mình.[9]

Trong thực tế vận động tiến tới dân chủ ở Đài Loan, đáng chú ý là quá trình hình thành các đảng đối lập, các tổ chức dân sự và việc đáp ứng những yêu cầu về tu chính Hiến pháp đều diễn ra tương đối ôn hòa và vượt qua được tất cả các chướng ngại mà trước đó ít người dám hình dung mọi việc sẽ dễ dàng như vậy.

Phong trào cải cách dân chủ ở Đài Loan xuất hiện từ cuối những năm 1970, bắt đầu bằng việc xem lại những vấn đề có liên quan đến quyền lợi của các thành phần dân tộc khác nhau.[10] Lúc đó ý tưởng cải cách đã nhận được sự ủng hộ và hỗ trợ của thế hệ trí thức mới của Đài Loan, mà đa số đã du học ở nước ngoài. Nhóm này có khoảng hơn 100 người, và tập hợp quanh tờ Đại Học Tạp Chí (Intellectual). Những trí thức này tham gia vào chính trường và tạo nên những ảnh hưởng chính trị. Dẫn đầu là Hoàng Tín Lương (Huang Hsin Liang), Khang Ninh Hưởng (Kang Ning Hsiang) và sau đó là Trương Tuấn Hồng (Chang Chun Hung), Từ Tín Lương (Hsu Hsin Liang), v.v… Thỉnh thoảng, nhóm này đăng các bài báo hợp pháp và cả không hợp pháp. Do thành công của “Intellectual” nhiều tạp chí lần lượt ra đời. Nổi bật nhất là tờ Đài Loan Chính Luận (Taiwan Political Review) xuất bản giữa 1975. Tờ tạp chí này đã gây được tiếng vang lớn. Nhưng vào tháng 12 năm đó tờ tạp chí đã bị cấm và một biên tập viên bị kết án 10 năm tù. Sự kiện này đã đẩy những trí thức ngoài đảng xích lại gần nhau và có tổ chức hơn. Sau cuộc bầu cử 1977, họ giành thêm vài ghế nữa trong quốc hội. Tháng 12/1978, họ chính thức thành lập “Nhóm trợ giúp tranh cử ngoài đảng Đài Loan” (Taiwan Tangwai Election Support Group). Mặc dù có điều kiện thuận lợi hơn, nhưng tại cuộc bầu cử cuối năm 1985 và đầu năm 1986, phong trào Đảng ngoại cũng chỉ giành được một vị trí khá khiêm tốn trong hệ thống chính trị. Đến lúc này, lãnh đạo của phong trào Đảng ngoại mới bắt đầu chú trọng đến việc mở rộng tổ chức và thành lập những chi nhánh rộng khắp, với tính cách là một đảng chính trị thực sự. Đứng trước nguy cơ một đảng chính trị có tổ chức sắp sửa xuất hiện, Quốc dân đảng vội nhờ một số nhận vật có uy tín như Đào Bạch Chuyên (T’ao Pai Chuan), một trí thức và cựu nghị sĩ cùng ba giáo sư Đại học Quốc gia Đài Loan là Hồ Phúc (Hu Fu), Dương Quốc Thư (Yang Kuo Shu) và Lý Hồng Hỉ (Li Hung Hsi) làm trung gian thương thảo với Đảng ngoại. Qua nhiều cuộc thương thảo, thậm chí cả đe dọa bắt giữ lãnh đạo của phong trào, đến ngày 10/5/1986, hai bên đồng ý phong trào sẽ lấy tên là “Tangwai Public Policy Research Association” (Hiệp hội nghiên cứu chính sách công ngoài đảng) và được phép thành lập các chi nhánh trên toàn quốc. Sau đó, Quốc dân đảng yêu cầu tổ chức mới của “Đảng ngoại” phải đăng kí với chính quyền như một tổ chức xã hội hợp pháp dưới qui định của thiết quân luật. Các thành viên của phong trào tranh cãi rằng Quốc dân đảng và hai đảng phụ của nó là Đảng Thanh niên (Youth Party) và Đảng xã hội chủ nghĩa dân chủ (Democratic Socialist Party) cũng chưa đăng kí, do đó Đảng ngoại cũng không cần đăng kí. Cuộc thương thảo lần hai đã không đưa lại kết quả vì những bất đồng và nghi ngờ. Cuộc thương thảo lần ba dự kiến vào ngày 6/6/1986 đã không xảy ra. Có nhiều nguyên nhân khiến cuộc thương thảo không thực hiện được: như nhóm bảo thủ của Quốc dân đảng, trong đó có Trung tướng Tưởng Vệ Quốc, em Tưởng Kinh Quốc, không ủng hộ thương thảo; sức khoẻ của Tưởng Kinh Quốc lúc đó không tốt; sự kiểm duyệt báo chí lúc đó còn rất khắt khe; hàng loạt tập san của giới trí thức và sinh viên đối lập lúc đó (như Mỹ Lệ Đảo, Nam Phong, Văn Tinh, Bát Thập Niên Đại…) bị đóng cửa, trong đó có vụ án Bằng Lai Đảo khá nổi tiếng. Bằng Lai Đảo (P’eng Lai Tao, Paradise Island) là một tập san của nhóm đối lập Hoàng Thiên Phúc (Huang T’ien Fu), Trần Thủy Biển và Lý Ý Dương (Li I Yang). Tạp chí này đã bị Phùng Hộ Hưởng, thư ký của Tưởng Kinh Quốc và là Viện trưởng Viện Văn Học (College of Liberal Arts), Đại học Trung ương (NCU), kiện về tội thóa mạ cá nhân (libel). Bằng Lai Đảo tấn công lại Quốc dân đảng bằng cách vu cho những học giả đang lên của đảng này rằng họ đạo văn, dịch thuật chứ không phải nghiên cứu. Kết cục, khi bị kiện, Trần Thủy Biển, một luật sư nổi tiếng, có tài hùng biện, đồng thời là nghị viên “số 1” của Hội đồng Nhân dân Đài Bắc, là người chịu trách nhiệm của tờ Bằng Lai Đảo về mặt pháp lý, đã bị Tòa án tuyên phạt 10 tháng tù cùng với hai đồng sự của ông.[11] Sau sơ thẩm và phúc thẩm, Trần Thủy Biển chịu hình phạt ở tù 8 tháng, ra tù sớm 2 tháng, nhưng không mất quyền công dân và luật sư. Những sự kiện kể trên đã góp phần làm ý thức dân chủ trong giới sinh viên dâng cao, thúc đẩy các giới ngoài đảng và sinh viên xuống đường đòi hỏi dân chủ, bầu lại quốc hội, thực thi hiến pháp.

Vào tháng 6/1986, nhóm Khương Ninh Hưởng đã đưa ra một lộ trình cho dân chủ hóa qua 5 bước. Tuy Bộ Nội vụ tuyên bố không cho những người thuộc phong trào Đảng ngoại lập đảng (18/7/1986), nhưng nhóm Khương Ninh Hưởng vẫn tổ chức ra những chi bộ chuẩn bị cho một đảng chính trị mới ra đời vào ngày 9/8/1986. Ngày 28/8/1986, phong trào Đảng ngoại họp tại khách sạn Viên Sơn, Đài Bắc, thảo luận. Chu Cao Chính (tốt nghiệp Luật học tại Đại học Quốc Gia Đài Loan, Tiến sỹ Triết học Đại học Bonn, Đức) yêu cầu thành lập đảng, và được mọi người nhất trí. Tạ Trường Đình (nghị viên Đài Bắc) đề xuất tên đảng là đảng Dân chủ Tiến bộ gọi tắt là Dân Tiến (Democratic Progressive Party), và được chấp nhận. Ngày 10/11/1986, Đại hội đảng lần thứ nhất diễn ra tại khách sạn Hoàn Á, Đài Bắc. Giang Bằng Kiên được bầu làm chủ tịch đảng đầu tiên. Mặc dù Quốc dân đảng tìm mọi cách ngăn chặn, nhưng được sự ủng hộ đông đảo của người dân, đặc biệt là tầng lớp sinh viên, các cuộc biểu tình liên tục nổ ra dưới sự dẫn dắt của đảng Dân Tiến đã tạo sức ép to lớn lên Quốc dân đảng để rồi dẫn tới một Đại hội Quốc dân thực hiện tu chính Hiến pháp và từng bước dân chủ hóa đời sống xã hội gần như yêu cầu của các thành viên phong trào của những người ngoài đảng mùa hè năm 1986.

Suốt 37 năm, từ 1949 đến 1986, với sự chuyên chính của Quốc dân đảng, quyền lực tập trung trong tay một thiểu số những người từ Trung Quốc từ đại lục tới. Dưới chế độ quân luật, Đài Loan không có đảng đối lập và cũng không có quyền lập đảng chính trị. Với lý do chống Cộng, nhiều sắc luật thực ra là vi hiến đã được ban bố. Bên cạnh việc giới hạn một số quyền cơ bản của người dân như cấm lập đảng chính trị, cấm phê bình chính phủ, báo chí, truyền thông phải chịu kiểm duyệt…, các sắc luật này tăng quyền hạn cho Tổng thống từ hai nhiệm kỳ tới vô hạn định (Tổng thống Tưởng Giới Thạch cầm quyền tới khi qua đời năm 1975 khi ông 88 tuổi). Quyền của Tổng thống cũng được nới rộng gần như tuyệt đối qua sắc luật về “Tình trạng khẩn cấp”.[12] Nhiều điều khoản lâm thời (từ 1947) cho phép các đại biểu ở Trung Quốc đại lục được bầu vào hai cơ quan lập pháp và giữ chức tới trọn đời. Trong khi đó, dân gốc Đài Loan không được tham gia. Một số điều luật khác lại cho phép đình hoãn vô thời hạn một số cuộc bầu cử tại địa phương…

Trong bối cảnh của những thay đổi thái độ chính trị ở phạm vi toàn cầu, vào năm 1986, Tổng thống Tưởng Kinh Quốc đã có một hành động quan trọng mà về sau người ta cho rằng đáng được ghi vào lịch sử.[13]

Sau 15 năm Đài Loan “mất ghế” Liên Hiệp Quốc (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là đại diện thường trực tại Hội đồng Bảo án Liên Hợp quốc kể từ 25/10/1971) và sau 7 năm Mỹ thiết lập quan hệ với Bắc Kinh (01/01/1979), Tưởng Kinh Quốc dường như đã ý thức được rằng dân chủ hoá là điều kiện tối cần thiết và không thể tránh để chính quyền Đài Loan nhận được sự hỗ trợ của dân chúng. Đầu năm 1986, ông đã triệu tập một Hội nghị gồm nhiều nhân sĩ, trí thức… yêu cầu họ nghiên cứu những biện pháp cải tổ cần thiết, kể cả việc bãi bỏ quân luật cùng lệnh cấm các đảng chính trị. Khước từ đề nghị của các lãnh tụ bảo thủ trong Quốc dân đảng chủ trương phải đàn áp đảng Dân Tiến, ông cho phép đảng này hoạt động. Một tuần sau, tức là đúng 15 tháng trước khi ông qua đời, Tưởng Kinh Quốc tuyên bố bãi bỏ thiết quân luật cùng một số giới hạn chính trị khác đã trói buộc Đài Loan trong tình trạng chuyên chế suốt 37 năm. Đảng Dân Tiến tổ chức Đại hội đảng, tuyên bố cương lĩnh chính trị cùng chương trình hành động vào tháng 11/1986 và đạt được 22,22% tổng sổ phiếu trong cuộc bầu vào Quốc hội cuối năm đó.

Nhưng tình hình đó vẫn chưa đủ khiến những người thuộc phía bảo thủ chịu thua cuộc. Trong năm 1987, quốc hội vẫn thông qua 3 đạo luật, triệt để cấm các hoạt động chính trị có ý định đề cao Cộng sản hoặc cổ vũ Đài Loan ly khai. Điều khoản cấm Đài Loan ly khai là đặc biệt quan trọng vì nhiều nhà hoạt động chính trị ở Đài Loan nói chung, trong đó có nhiều lãnh tụ đảng Dân Tiến, đã từng bị khép tội “cổ vũ ly khai” trước đó. Điều này thật đáng chú ý vì trong chính trường cả hai bờ eo biển Đài Loan, tư tưởng một Trung Quốc (一个中国) đã được ghi rõ trong Hiến pháp, dù cả hai bờ đều có cách hiểu riêng của mình về điều này. Luật bầu cử 1987 vẫn cấm những người từng bị kết tội “có khuynh hướng ly khai” không được ứng cử. Trong việc thi hành Luật An ninh quốc gia, quốc hội vẫn biểu quyết cấm các chính khách và các nhà hoạt động xã hội Đài Loan đã từng bị trục xuất về tội chủ trương hay ủng hộ khuynh hướng Đài Loan độc lập sẽ không được về nước.

Tháng 3/1990, sinh viên, học sinh Đài Loan (do nhóm sinh viên Đại học Quốc gia Đài Loan dẫn đầu) biểu tình tỏ thái độ phẫn nộ khi được biết trong cuộc bầu Tổng thống sắp tới, việc lựa chọn Tổng thống sẽ do đại diện của các vùng và các tỉnh Trung Quốc đại lục trong Quốc Dân đại hội từ 1947 chứ không phải do cử tri Đài Loan lựa chọn. Cuộc biểu tình của đông đảo sinh viên, được quần chúng ủng hộ, đã diễn ra rầm rộ kéo dài sáu tuần lễ đến mức có tờ báo đã dùng thuật ngữ “Tiểu Thiên An Môn” để mô tả hiện tượng này. Nhóm sinh viên biểu tình yêu cầu tu chính Hiến pháp để sửa đổi các điều khoản bất hợp lý mà trong đó, việc bầu các chức vụ Tổng thống và Phó Tổng thống phải được quyết định trực tiếp bằng chế độ phổ thông đầu phiếu.

Dưới áp lực của phe đối lập, các dân biểu Quốc dân đảng đồng ý Hiến pháp cần được sửa lại. Với sự góp ý của Hội đồng các đại thẩm phán và được bảo đảm sẽ nhận đủ quyền lợi hưu trí, đa số các dân biểu cao niên thay mặt các tỉnh, các vùng Trung Quốc đại lục trong Quốc Dân đại hội năm 1947 thoả thuận về hưu trước tháng 12/1991. Một Đại hội mới thay mặt toàn dân Đài Loan được bầu lên để thay thế. Tháng 3/1992, Quốc dân Đại hội họp để tu chính Hiến pháp. Tất cả đại biểu trong Quốc hội 1947 sẽ về hưu trước tháng 11/1992 để nhường chỗ một Quốc hội mới, thay mặt và chịu trách nhiệm trước dân chúng. Cũng theo Hiến pháp tu chính, từ 1996 trở đi, Tổng thống và Phó Tổng thống sẽ do dân trực tiếp bầu. Chế độ kiểm duyệt hoàn toàn bãi bỏ.

Từ chức vụ Phó Tổng thống lên thay Tưởng Kinh Quốc vào tháng 1/1988, Lý Đăng Huy được Quốc hội bầu thêm một nhiệm kỳ tháng 3/1990. Sinh trưởng tại Đài Loan, Lý Đăng Huy thấu hiểu và thông cảm với khát vọng công bằng và dân chủ của những người đồng hương bản địa và ý thức rằng chính quyền cần tôn trọng ước nguyện của dân chúng nếu muốn có được sự ủng hộ của dân chúng. Tuy được bầu làm Chủ tịch Quốc dân đảng, song ông lại không đồng ý kéo dài địa vị độc tôn của đảng. Ngay sau lễ tuyên thệ nhậm chức lần thứ hai năm 1990, ông tuyên bố sẽ nới rộng dân chủ và ký sắc lệnh ân xá tất cả chính trị phạm, chấm dứt “giai đoạn động viên tiễu Cộng phỉ”. Sắc lệnh này còn được mở rộng, phục hồi quyền công dân cho tất cả các can phạm chính trị. Sau đó, 4/1991, ông chính thức bãi bỏ các “Điều khoản lâm thời”, huỷ bỏ “danh sách đen”, danh sách bao gồm các nhân vật vĩnh viễn không được cấp hộ chiếu về nước vì tội bất đồng chính kiến.

Việc thay đổi cơ chế Quốc dân đảng và cơ cấu lại chính quyền cùng với chủ trương không đàn áp những chính khách có khuynh hướng muốn Đài Loan độc lập khiến một số đảng viên Quốc dân đảng gốc Trung Quốc đại lục bất mãn. Đáng kể nhất trong nhóm này là Đại tướng Hắc Bách Thôn (Hau Pei Tsun), nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, Bộ trưởng Quốc phòng, thủ tướng Chính phủ giai đoạn 1990-1993.

Năm 1993, một số đảng viên trẻ như Triệu Dược Khang, Dư Mộc, Tạ Khải Đại … (dân biểu quốc hội được bầu ra với số phiếu rất cao) và giới trí thức cấp tiến của đảng không ủng hộ chính sách của Lý Đăng Huy khi ông thiên vị những người bản xứ được coi là bất tài như Hoàng Đại Châu (thị trưởng Đài Bắc)… đã bỏ Quốc dân đảng để thành lập Tân đảng (tên cũ của đảng Quốc dân, do chính Tôn Dật Tiên đặt). Nhóm này được sự ủng hộ công khai của các đảng viên kỳ cựu như Hắc Bách Thôn (Thủ tướng), Lý Hoán (cựu Thủ tướng), Lâm Dương Cảng (người Đài Loan, nguyên Thống đốc Đài Loan, Cố vấn Tổng thống) ủng hộ. (Hai chính khách Lâm và Hắc sau đó đã liên kết tranh cử Tổng thống trong lần bầu cử dân chủ đầu tiên và thua Lý đăng Huy vào năm 1996. Hai ông này sau đó bị khai trừ khỏi Quốc dân đảng vì ra tranh cử). Tuy là chính đảng trẻ nhất, nhưng Tân đảng cũng tạo được thành tích đáng kể. Trong cuộc bầu vào Quốc hội tháng 12/1995, các ứng cử viên Tân đảng thu được 12,95% tổng số phiếu, so với 46,06% của Quốc dân đảng, 33,17% của đảng Dân Tiến, và 7,82% của các ứng cử viên độc lập.

Tân đảng đối nghịch với đảng Dân Tiến ở chỗ, họ luôn luôn xác nhận Đài Loan là một phần của Trung Quốc, chống lại chính sách “Đài độc” (Đài Loan độc lập) của đảng Dân Tiến và của Lý Đăng Huy (không công khai lúc bấy giờ). Là thế hệ thứ hai của giới quân nhân, họ cũng chống cộng, thiên về Mỹ và không ưa Nhật. Chịu áp lực của Tân đảng, Lý Đăng Huy phải tuyên bố Đài Loan vẫn là một phần của Trung Hoa, nhưng ông vẫn chỉ chấp nhận thống nhất khi Trung Quốc đại lục được dân chủ hóa và tiến bộ. Ai cũng phải hiểu rằng, yêu sách của họ Lý nhằm tìm kiếm sự ủng hộ của đảng viên, duy trì tình trạng hiện tại “bất độc, bất thống” (tức giữ tư thế đang độc lập thật sự nhưng tránh không khiêu khích Bắc Kinh). Chủ trương này vừa thực tế vừa ôn hoà, và được một tỉ lệ lớn dân chúng tán thành.

Đài Loan còn nhiều chính đảng khác. Từ sau 1989, việc thành lập một đảng chính trị ở Đài Loan đã trở nên dễ dàng. Trước khi Tân đảng xuất hiện, 67 chính đảng đã ghi danh trước cuộc bầu Quốc dân Đại hội năm 1991. Đảng Cộng sản cũng được thành lập với một nhóm ít ỏi khoảng gần 300 đảng viên. Tuy thế, chỉ có 17 đảng tranh cử trong cuộc bầu cử ấy. Cùng với Quốc dân đảng và đảng Dân Tiến, chỉ có 2 đảng mới thành lập là “Tân đảng” và “Thân dân đảng” hội đủ tiêu chuẩn về nhân sự để được tranh cử.

Mặc dù đã có nhiều đảng cùng tồn tại, song vào thập niên 1990, các chính đảng Đài Loan vẫn chưa thực sự bình đẳng. Sau nhiều năm nắm chính quyền với phương tiện chuyên chính hùng mạnh, Quốc dân đảng vẫn chi phối hệ thống truyền thông một cách mạnh mẽ. Quân đội và hệ thống an ninh cũng chưa thoát khỏi cách hành xử truyền thống. Nhưng đảng đối lập Dân Tiến vẫn mỗi ngày một mạnh thêm. Cho đến cuộc bầu cử vào Quốc hội năm 1989 đảng Dân Tiến đã chiếm được 28,20%; năm 1992: 31,86%; và năm 1995: 33,17%. Tuy chưa thực sự đạt tiêu chuẩn một thể chế lưỡng đảng hay đa đảng, nhưng Đài Loan đã dứt khoát vượt qua giai đoạn mọi quyền lực tập trung trong tay một đảng duy nhất.

Nhờ Hiến pháp tu chính năm 1994, trong đó sửa bỏ điều khoản cũ, cho phép người Đài Bắc và Cao Hùng cũng được bầu trực tiếp Thị trưởng và Hội đồng thành phố như tất cả các thành phố khác (Tại cuộc bầu Thị trưởng Đài Bắc năm 1963, một ứng cử viên ngoài đảng đã trúng chức thị trưởng. Quốc dân đảng không chấp nhận điều này nên đã ra luật mới, theo đó Đài Bắc (từ năm 1967) và Cao Hùng (từ năm 1979) do có trên 1 triệu dân, là thành phố trực thuộc Trung ương, nên thị trưởng phải do Trung ương chỉ định). Cũng từ 1994, chức Chủ tịch Tỉnh Đài Loan, từ trước vẫn do chính quyền bổ nhiệm, đã do dân trực tiếp bầu. Cuộc bầu cử Tổng thống và Phó Tổng thống tháng 3/1996, với bốn liên danh tranh cử một cách công khai cho thấy tất cả các lãnh tụ chính trị ở Đài Loan, lập pháp cũng như hành pháp, địa phương cũng như trung ương, đều đã do dân trực tiếp bầu và tự do lựa chọn từ những ứng viên tiêu biểu. Đáng chú ý là, chủ tịch Tỉnh đầu tiên được dân bầu chính là Lý Đăng Huy, người thứ hai là Tống Sở Lẫm (James Song), cả hai đều thuộc Quốc dân đảng. Tống Sở Lẫm là cánh tay phải của Lý Đăng Huy, và là nhân tố quan trọng trong việc hạ bệ Lý Hoán và Hắc Bách Thôn. Nhưng sau này khi bất mãn vì Lý Đăng Huy thiên vị chọn Liên Chiến làm Thủ tướng và là người kế vị, Tống Sở Lẫm bỏ đảng, thành lập đảng “Thân dân”, và ra tranh cử tổng thống, nhưng thất bại.

Trong lộ trình dân chủ hoá, khó khăn của Đài Loan không phải là ở việc soạn thảo một văn bản Hiến Pháp mới. Cho tới những năm 1990, chế độ chính trị của Đài Loan không được coi là dân chủ không phải vì Hiến pháp có nội dung thiếu dân chủ, mà là Hiến Pháp đã có (1947) không được thực thi. Nhiều điều khoản ghi trong Hiến pháp 1947 bị phong tỏa.

Khai sinh từ cuộc Cách mạng Tân Hợi (10/10/1911) với lý tưởng Tam dân chủ nghĩa cao đẹp – Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc – và Ngũ quyền phân lập – Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp, Khảo thí, Giám sát – Đài Loan sớm có Hiến Pháp. Đó là bản Hiến pháp của Cộng hòa Trung quốc (ROC) thời còn ở đại lục, tu chính lần sau cùng, công bố tại Nam Kinh ngày 1/1/1947 và có hiệu lực từ ngày 25/12/1947. Tuy vẫn bị chê là chưa được hoàn hảo song về cơ bản đây là một hiến pháp dân chủ, có hệ thống phân quyền rõ rệt và dựa trên quyền đa số. Hiến pháp này quy định: “Trung Hoa Dân Quốc xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Tam Dân, là một nước Cộng hoà dân chủ của dân, do dân điều khiển, và vì dân”.[14]

Theo Hiến pháp này, Trung Hoa Dân Quốc có hai cơ quan lập pháp: Quốc Dân Đại hội và Viện Lập Pháp (Quốc hội). Quốc Dân Đại hội được trao nhiệm vụ bầu và bãi truất Tổng thống và Phó Tổng thống, tu chính Hiến pháp và chuẩn y các bổ nhiệm của Tổng thống. Viện Lập Pháp thảo luận và thông qua các đạo luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các bổ nhiệm của Thủ tướng Chính phủ. Được bầu lên từ năm 1947 trước khi chính phủ Quốc dân đảng chạy ra Đài Loan, hai cơ quan này đều có danh nghĩa là cơ quan lập pháp cho toàn Trung Quốc. Đại biểu của Đài Loan chỉ là một thành phần, bên cạnh các đại biểu thay mặt các tỉnh, các vùng ở Trung Quốc đại lục. Cho tới 1990, với lý do không thể về đơn vị cũ (đơn vị bầu cử năm 1947 ở Trung Quốc đại lục) tổ chức bầu lại, các dân biểu từ Trung Quốc đại lục đã tại chức được 43 năm. Khi một đại biểu nào đó của phía Trung Quốc đại lục qua đời, người đó sẽ được thay hoặc bằng một trong những ứng cử viên do Quốc Dân đảng đưa ra (thường là ứng viên thất bại trong cuộc bầu cử 1947, hay đảng viên cao cấp nguyên quán vùng đó đang sống ở Đài Loan). Trên thực tế, tính đại diện của dân Đài Loan (được bầu ra) trong hai cơ quan này rất ít, mặc dù những quyết định mà đại biểu quốc hội đưa ra lại có ảnh hưởng lớn đến đời sống dân chúng và đến vận mệnh quốc gia.

Theo Hiến pháp 1947, người dân có quyền phổ thông đầu phiếu để chọn người lãnh đạo quốc gia. Quốc dân đảng nhiều năm hoãn thực hiện quyền này với lý do là quốc gia đang ở trong tình trạng khẩn cấp. Tuy thế, đến cuối những năm 1980 thực tế ngày càng làm lộ ra thực chất của vấn đề là chính quyền đã nhân danh Hiến pháp để củng cố vị trí độc quyền.

Tự thấy được sự thiếu hụt dân chủ, Quốc dân đảng đã tổ chức những cuộc bầu cử địa phương, và chính từ đó người dân Đài Loan quen dần với hoạt động dân chủ, với việc chọn lựa ứng cử viên. Các ứng cử viên, vì thế cũng chuyên nghiệp hóa dần các hoạt động tranh cử, và điều đáng nói là để tranh cử thì người muốn ứng cử phải có sự chuẩn bị về năng lực, uy tín và cả đạo đức cá nhân trước đó nhiều năm. Chứng kiến các kỳ tranh cử quan trọng ở Đài Loan, nhiều nhà quan sát phương Tây ngạc nhiên rằng, các ứng cử viên ngoài việc công khai lý lịch cá nhân, còn phải công khai một số nét nhân thân của người thân trong gia đình họ. Khi dân chủ trực tiếp ngày càng mở rộng và các chức vụ được bầu chọn ngày càng có ý nghĩa, thì xã hội sẽ ở trình độ phát triển hơn.

(Còn tiếp một phần)

* GS.TS., Viện Thông tin Khoa học xã hội. [email protected]. Bài đã xuất bản lần đầu trong tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 5 (165) /2015. tr. 47-65.

——————–

[1] Xem: Francois Joyaux (1981). Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (Geneve1954). Nxb. Thông tin Lý luận. Hà Nội. http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,20369.0/wap2.html // Lê Mai (2011). Vai trò của Hoa Kỳ trong cuộc phong tỏa eo biển Đài Loan. http://www.vietinfo.eu/tu-lieu/vai-tro-cua-hoa-ky-trong-cuoc-phong-toa-eo-bien-dai-loan-cua-trung-quoc-.html // Shen Zhihua (2007). Mao, Stalin and the Korean War: Trilateral communist relations in the 1950s. London and New York: Routledge 2012. ISBN: 978-0-415-51645-7. http://www.h-net.org/~diplo/roundtables/PDF/Roundtable-XIV-35.pdf

[2] Xem: Taylor, Jay (2000). The Generalissimo’s son: Chiang Ching-kuo and the revolutions in China and Taiwan. Harvard University Press. // Theo một tài liệu của Quốc hội Đài Loan (Executive Yuan of Taiwan), trong suốt thời kì khủng Bố Trắng (White Terror), khoảng 140.000 người Đài Loan đã bị bỏ tù, trong số đó nhiều người bị xử bắn, chỉ vì có những hành động bị cho là đối lập với chính quyền Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Điều này đã để lại một nỗi hiềm thù trong xã hội Đài Loan. Năm 1995, khi làm tổng thống, Lý Đăng Huy đã chính thức thay mặt Quốc dân đảng xin lỗi dân Đài Loan. (Xem: Nguyễn Huy Vũ, Nguyễn Minh Thọ (2006). Vài nét về quá trình dân chủ hóa ở Đài Loan. Hội Thảo Hè 2006 lần thứ 9, Berkeley, California, USA, 28 – 29 /7/2006).

[3] Xem: Jeffrey Sachs (2011). Gorbachev and the Struggle for Democracy. Huffington Post 26/12/2011 http://www.huffingtonpost.com/jeffrey-sachs/gorbachev-and-the-struggl_b_1170233.html

[4] Xem: The Institute for National Policy Research. http://www.inpr.org.tw/inpr/en/aboutus.php?id=Chairman%20of%20the%20Board

[5] Xem: Chiang Ching-kuo Foundation for International Scholarly Exchange http://www.cckf.org/e-organization-3.htm // CV Yun Han Chu http://www.ipsas.sinica.edu.tw/image/users/14/1.pdf

[6] Tien Hung-mao & Chu Yun-han. Taiwan’s Domestic Political Reform, Institutional Change and Power Alignment. Sách: Gary Klintworth (1994). Taiwan in the Asia Pacific in the 1990s. Pub.: Allen & Unwin, Australian National University. // Building Democracy in Taiwan. http://www.univie.ac.at/Sinologie/repository/uePRDemokrUIdentTaiwanSeit1980/ChuYun-hanAndTienHung-mao_BuildingDemocracyInTaiwan.pdf

[7] Xem: Democracy `Second Taiwan Miracle’. The Washington Times June 13, 1997. http://www.questia.com/library/1G1-58556653/lee-democracy-second-taiwan-miracle

[8] Xem: http://iis-db.stanford.edu/staff/2128/Terry_Karl-CV.pdf // http://www.eui.eu/Documents/DepartmentsCentres/SPS/Profiles/Schmitter/PCS-CV.pdf

[9] Terry L. Karl & Philippe Schmitter (1990). Modes of Transition and Type of Democracy in Latìn America, Southem and Eastem Europe. Stanford, Cali.: Dept. of Political Science, Stanford University.

[10] Tính đến 2008, ở Đài Loan có khoảng 14 dân tộc nguyên trú (bản địa) và một số nhóm người thuộc các dân tộc khác di dân đến. Mâu thuẫn chính trị ở đây trước những năm 1990 chủ yếu là mẫu thuẫn với người Hán đến từ Đại lục năm 1949. Xem: Trần Liên. Lịch sử di dân và các nhóm dân cư tại Đài Loan – Dân tộc nguyên trú. http://tranlien.researchland.net/2011/07/31/lich-su-di-dan-va-cac-nhom-dan-cu-tai-dai-loan-dan-toc-nguyen-tru-%E5%8E%9F%E4%BD%8F%E6%B0%91

[11] GS.TS. Trần Văn Đoàn là một nhân chứng quan trọng của vụ kiện tụng này tại Tòa án tối cao.

[12] Xem: Taylor, Jay (2000). The Generalissimo’s son: Chiang Ching-kuo and the revolutions in China and Taiwan. Harvard University Press. // Агеев С.С. (2005). От марксиста Николая Елизарова до антикоммуниста Цзян Цзинго – о бывшем свердловчанине, ставшем президентом Тайваня. http://www.epochtimes.ru/content/view/272/4/

[13] Xem: Taylor, Jay (2000). The Generalissimo’s son: Chiang Ching-kuo and the revolutions in China and Taiwan. Harvard University Press.

[14] The Constitution of the Republic of China. (Article 1: The Republic of China, founded on the Three Principles of the People, shall be a democratic republic of the People, by the people, and for the people). http://www.taiwandocuments.org/constitution01.htm