Nguồn: Gideon Rachman, “Netanyahu and Erdoğan compete to be the Middle East’s strongman,” Financial Times, 16/12/2024
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Thổ Nhĩ Kỳ và Israel đã bắt đầu có động thái tận dụng sự sụp đổ của chế độ Assad ở Syria.
“Chỉ còn lại hai chúng tôi trong số các nhà lãnh đạo. Hiện tại, chỉ có tôi và Vladimir Putin.” Đó là phát biểu có phần mạnh bạo của Recep Tayyip Erdoğan vào tuần trước.
Tập Cận Bình và Donald Trump có thể tranh cãi về thứ hạng toàn cầu của tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, ở cấp độ khu vực, Erdoğan hoàn toàn có thể khẳng định mình là một trong hai nhà lãnh đạo cứng rắn đang định hình lại Trung Đông. Đối thủ đáng ghét của ông, Benjamin Netanyahu của Israel, là người còn lại.
Sự ngạo mạn hiện tại của Erdogan xuất phát từ vai trò của ông ở Syria. Thổ Nhĩ Kỳ là cường quốc khu vực duy nhất ủng hộ Hayat Tahrir al-Sham (HTS), lực lượng Hồi giáo đã lật đổ chế độ Assad. Ibrahim Kalin, người đứng đầu cơ quan tình báo Thổ Nhĩ Kỳ, đã đến thăm Damascus chỉ vài ngày sau khi HTS lên nắm quyền.
Erdoğan từ lâu đã mong muốn tái thiết quyền lực của Thổ Nhĩ Kỳ trên khắp các lãnh thổ của Đế chế Ottoman cũ. Đối với ông, việc lật đổ Assad mở ra một con đường mới để thâu tóm ảnh hưởng trong khu vực. Nó cũng có khả năng mang lại lợi ích trong nước – làm suy yếu người Kurd ở Syria, giảm bớt vấn đề người tị nạn của Thổ Nhĩ Kỳ, và giúp ông tiếp tục giữ chức tổng thống sau năm 2028.
Các liên minh của Thổ Nhĩ Kỳ với các nhóm Hồi giáo như HTS và Anh em Hồi giáo bị Israel và các chế độ quân chủ bảo thủ Vùng Vịnh cho là mối đe dọa nghiêm trọng. Israel đã có động thái nhằm phá hủy năng lực quân sự của Syria, ném bom lực lượng hải quân và không quân của nước này và chiếm giữ lãnh thổ bên ngoài Cao nguyên Golan, nơi Israel đã chiếm đóng từ năm 1967.
Chính phủ Israel mô tả các động thái của mình là để phòng ngừa và phòng thủ. Nhưng cũng giống như Erdoğan, Netanyahu nhìn thấy những cơ hội ở phía trước. Phát biểu vào tuần trước, ông nhận xét: “Một cơ hội kiến tạo vừa xuất hiện, một trận động đất chưa từng xảy ra trong hàng trăm năm kể từ thỏa thuận Sykes-Picot.” Việc nhắc đến thỏa thuận Anh-Pháp chia cắt Đế chế Ottoman năm 1916 là một điểm quan trọng. Giữa tình hình Trung Đông hỗn loạn, những người ủng hộ một Israel vĩ đại đã nhìn thấy cơ hội để vẽ lại đường biên giới khu vực một lần nữa. Aluf Benn của Haaretz viết rằng Netanyahu “dường như đang tìm kiếm một di sản với tư cách là nhà lãnh đạo đã mở rộng biên giới của Israel sau 50 năm rút lui.”
Phong trào định cư, vói nhiều người ủng hộ trong chính phủ liên minh của Netanyahu, đang thúc đẩy Israel tái chiếm một số phần của Gaza. Chính quyền Trump sắp tới có thể sẽ bật đèn xanh cho Israel chính thức sáp nhập một số phần của Bờ Tây bị chiếm đóng. Và việc chiếm đóng “tạm thời” đất đai của Syria cuối cùng có thể trở thành vĩnh viễn.
Xa hơn nữa, Netanyahu sẽ thấy một cơ hội để đối đầu lần cuối với Iran. Cộng hòa Hồi giáo đang ở trong tình thế yếu nhất trong nhiều thập kỷ. Họ phải đối mặt với sự phản đối trong nước và khả năng bất ổn vì sự sụp đổ của chế độ chuyên chế Syria. Tehran đã lần lượt chứng kiến các đồng minh của mình – Hamas, Hezbollah, và bây giờ là Assad – bị tiêu diệt.
Iran có thể sẽ phản ứng với việc mất đi các đại diện khu vực của mình bằng một động thái tăng tốc để sở hữu vũ khí hạt nhân. Nhưng điều đó có thể dẫn đến một cuộc tấn công của Israel. Sau cuộc tấn công thành công của chính phủ Netanyahu chống lại Hezbollah ở Lebanon – một chiến dịch mà chính quyền Biden đã cảnh báo chống lại – người Israel đang trong tâm trạng cực kỳ tự tin.
Trong năm qua, Israel đã chứng minh khả năng chiến đấu trên nhiều mặt trận cùng lúc – bao gồm Gaza, Bờ Tây, Lebanon, Yemen, Iran, và bây giờ là Syria. Người Israel cũng là cường quốc vũ trang hạt nhân duy nhất trong khu vực đang có sự hậu thuẫn gần như hoàn toàn của Mỹ.
Cơ hội để Netanyahu đi vào lịch sử với tư cách là một nhà lãnh đạo thành công dường như rất mong manh sau thảm họa ngày 7 tháng 10 của Hamas. Và hiện ông còn đang bị xét xử vì tội tham nhũng ở Israel, một vụ việc gây tranh cãi sâu sắc ở cả trong và ngoài nước.
Giống như Erdoğan, Netanyahu là một người sống sót chính trị tàn nhẫn. Cả hai lần đầu lên nắm quyền cách đây nhiều thập kỷ và tự xem mình là “người của số mệnh.” Tuy nhiên, giấc mơ thống trị khu vực của họ cũng gặp phải những điểm yếu tương tự nhau. Israel và Thổ Nhĩ Kỳ là những cường quốc phi Ả Rập trong một khu vực có đa số là người Ả Rập. Thế giới Ả Rập chắc chắn không mong muốn một Đế chế Ottoman được tái lập. Về phần mình, Israel vẫn là một cường quốc “lạc loài” ở Trung Đông, bị sợ hãi, bị ngờ vực, và thường bị ghét bỏ.
Thổ Nhĩ Kỳ và Israel cũng có nền tảng kinh tế quá yếu để có thể thực sự thống trị khu vực. Nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đã bị tàn phá bởi lạm phát. Và với tất cả sức mạnh công nghệ và quân sự của mình, Israel vẫn chỉ là một nước nhỏ với chưa đến 10 triệu người.
Tham vọng đối địch của Erdoğan và Netanyahu có thể dễ dàng xung đột với nhau ở Syria – đất nước có nguy cơ trở thành chiến trường cho các cường quốc khu vực cạnh tranh, vì Ả Rập Saudi và các nước vùng Vịnh cũng có lợi ích bị đe dọa ở đó.
Tuần trước, trong lúc người Thổ Nhĩ Kỳ ăn mừng sự sụp đổ của Damascus và người Israel đang tiêu diệt quân đội Syria, thì người Ả Rập Saudi đã ăn mừng một thành tựu hòa bình hơn, được chọn là nước chủ nhà của World Cup 2034.
Ả Rập Saudi và các quốc gia vùng Vịnh có lẽ sẽ cảm thấy bị đe dọa trực tiếp hơn bởi các liên minh Hồi giáo của Thổ Nhĩ Kỳ, hơn là bởi tham vọng lãnh thổ của Israel. Nhưng Riyadh biết rằng cuộc tấn công của Israel vào Gaza đã khiến phần lớn thế giới Ả Rập kinh hoàng. Việc xích lại gần Netanyahu để ngăn cản Erdoğan sẽ gây tranh cãi, đặc biệt là nếu người Israel đồng thời chôn vùi mọi triển vọng cho giải pháp hai nhà nước với người Palestine.
Israel và Thổ Nhĩ Kỳ đều có quân đội hùng mạnh. Nhưng Ả Rập Saudi, Qatar, và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất lại nắm trong tay sức mạnh tài chính. Bất kỳ con đường nào mà Riyadh quyết định lựa chọn đều có thể định hình Trung Đông thậm chí còn cơ bản hơn cả hành động của Erdoğan và Netanyahu.