Nguồn: Nils Gilman, “Samuel Huntington Is Getting His Revenge,” Foreign Policy, 21/02/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Ý tưởng về một “sự va chạm giữa các nền văn minh” trên toàn cầu không sai, chỉ là nó đã đến quá sớm.
Chúng ta đang đứng trước một thời khắc bước ngoặt tái sắp xếp trật tự quan hệ quốc tế có tầm quan trọng ngang với các sự kiện năm 1989, 1945, hoặc 1919 – một sự kiện mang tính thế hệ. Giống như những lần trước, sự kết thúc của trật tự quốc tế tự do hình thành vào những năm 1990 là một khoảnh khắc chứa đựng cả hy vọng lẫn sợ hãi, khi những suy nghĩ cũ, dù tốt hay xấu, đều biến mất. Những thời điểm then chốt như vậy cũng là giây phút tỏa sáng của những kẻ cơ hội đầy sức hút, hơn là những nhà điều hành tài giỏi.
Trong mỗi bước ngoặt trước đó, trật tự cũ đã dần suy yếu trước khi sụp đổ hoàn toàn. Dù những người đương thời không phải ai cũng nhận ra, nhưng khi nhìn lại, chúng ta thấy rằng trật tự kế tục đã được thành hình từ rất lâu. Ví dụ, vào năm 1919, việc cấm chiến tranh và thành lập một quốc hội liên quốc gia đã được đưa ra thảo luận suốt nhiều thập kỷ; vào năm 1918, Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đã đề xuất “quyền tự quyết dân tộc” làm cơ sở để thành lập một quốc gia (dù nguyên tắc này chỉ dành cho các quốc gia do người da trắng lãnh đạo). Ý tưởng về một Hội Quốc Liên được cải tổ với một hội đồng bảo an hoạt động hiệu quả hồi năm 1945 thực chất đã được lên kế hoạch từ năm 1942 – dù sự ra đời của vũ khí hạt nhân vào cuối chiến tranh sẽ thay đổi các toan tính và mở đường cho Chiến tranh Lạnh. Và trước năm 1989, ý tưởng về một trật tự quốc tế “tự do” hoặc “dựa trên luật lệ” toàn cầu như một giải pháp thay thế cho các cuộc tranh giành quyền lực Đông/Tây và Bắc/Nam đã được đề xuất kể từ những năm 1970.
Trật tự bá quyền sau Chiến tranh Lạnh nổi lên trong thập niên 1990 dựa trên một số trụ cột quy chuẩn: (a) biên giới quốc tế không được phép thay đổi bằng vũ lực – việc bảo vệ chuẩn mực thời hậu chiến này là lời biện minh chính thức cho Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991; (b) nguyên tắc chủ quyền quốc gia vẫn được áp dụng, trừ phi có những hành vi tàn bạo vi phạm nhân quyền nghiêm trọng – một ngoại lệ cuối cùng sẽ được chính thức hóa dưới tên gọi “trách nhiệm bảo vệ”; (c) hội nhập kinh tế và tài chính toàn cầu nên được mọi người chấp nhận vì thương mại tự do và công bằng sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các bên; và (d) tranh chấp giữa các quốc gia sẽ được giải quyết thông qua các cuộc đàm phán pháp lý trong các thể chế đa phương – việc nâng cấp Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) thành Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 1995 là biểu hiện mang tính thể chế tiêu biểu cho nguyên tắc này.
Chắc chắn là không có trụ cột nào trong số này không bị phản đối, bởi bá quyền không giống với đồng thuận. Trong 15 năm qua, mỗi trụ cột đều đã bị thách thức ngày càng trực tiếp hơn, đặc biệt là bởi nước Nga của Vladimir Putin và Trung Quốc của Tập Cận Bình. Chiếc đinh cuối cùng đóng vào quan tài là Mỹ, quốc gia từng tuyên bố là người bảo trợ vĩ đại nhất của những nguyên tắc này vào thập niên 1990 và 2000, giờ đây đang bác bỏ tất cả chúng. Như Nathan Gardels đã lập luận cách đây vài tuần, dưới sự lãnh đạo của một Donald Trump được tái đắc cử, Mỹ hiện là cường quốc xét lại hàng đầu thế giới. Tuyên bố này đã được Howard French nhắc lại gần đây.

Trong lúc trật tự cũ đang hấp hối, câu hỏi trung tâm chi phối quan hệ quốc tế ngày nay là bản chất của trật tự mới – vốn đang chật vật để thành hình. Bất kể tên gọi cuối cùng của trật tự mới này có là gì, thì các đặc điểm xác định của nó sẽ bao gồm chủ nghĩa giao dịch có tổng bằng không trong kinh tế quốc tế, chính trị cường quyền kiểu Thucydides, trong đó “kẻ mạnh làm bất cứ những gì mình có thể, còn kẻ yếu chấp nhận những gì họ phải chấp nhận,” và những khẳng định mạnh mẽ về chính trị bản sắc tập trung vào “các quốc gia văn minh.” Những đặc điểm này sẽ hình thành trên một sân chơi quốc tế bình đẳng hơn nhiều so với sân chơi xuất hiện sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin, mà Charles Krauthammer từng mô tả là “khoảnh khắc đơn cực,” trong đó Mỹ nổi lên như “siêu cường” độc nhất, theo lời của cựu Ngoại trưởng Pháp Hubert Védrine.
Trong quá trình tái sắp xếp trật tự vĩ đại đó, cuộc tranh luận nổi bật nhất trong quan hệ quốc tế là giữa bài luận Sự cáo chung của lịch sử của Francis Fukuyama (xuất hiện như một lời tiên tri, chỉ vài tháng trước khi Bức tường Berlin sụp đổ) và Sự va chạm giữa các nền văn minh của Samuel Huntington, được xuất bản bốn năm sau đó. Bản thân Fukuyama thừa nhận rằng “sự cáo chung của lịch sử không phải là một tuyên bố về tình trạng thực nghiệm của thế giới, mà là một lập luận quy chuẩn về tính công bằng hoặc đầy đủ của các thể chế chính trị dân chủ tự do.” Tuy nhiên, vào thời điểm đó, những người theo chủ nghĩa tự do cảm thấy rằng tầm nhìn quy chuẩn của Fukuyama xứng đáng được ủng hộ. Và đến đầu thế kỷ này, những người theo chủ nghĩa tự do có thể nhìn vào các cải cách ở nước Nga của Boris Yeltsin cũng như Trung Quốc của Giang Trạch Dân và tự thuyết phục mình rằng Fukuyama đã giành chiến thắng trong cuộc tranh luận về cả quan điểm lẫn phong cách.
Huntington không đồng ý. Giống như Fukuyama, Huntington – một trong những người sáng lập Foreign Policy – lập luận rằng sự chia rẽ trong Chiến tranh Lạnh giữa phương Đông cộng sản và phương Tây dân chủ, giữa phương Bắc toàn cầu giàu có và phương Nam toàn cầu nghèo đói đã “không còn phù hợp nữa.” Nhưng trong khi nhà quốc tế tự do Fukuyama dự đoán rằng sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh báo hiệu hòa bình vĩnh viễn giữa các quốc gia tuân thủ theo các nguyên tắc chung của dân chủ bầu cử và chủ nghĩa tư bản được quản lý (mà Fukuyama gọi là “hình thức chính phủ cuối cùng của con người”), thì nhà hiện thực Huntington lại dự đoán thế giới sẽ liên tục xung đột, dù là theo các trục hoàn toàn khác.
Đối với Huntington, các tác nhân địa chính trị quan trọng là “các nền văn minh” được hiểu theo thuật ngữ do nhà sử học người Anh Arnold J. Toynbee định nghĩa trong tác phẩm Một nghiên cứu về lịch sử, xuất bản thành 12 tập từ năm 1934 đến năm 1961. Theo Huntington, “các đường đứt gãy” (xin hãy chú ý đến phép ẩn dụ về kiến tạo địa lý đáng lo ngại) giữa các nền văn minh cũng chính là nơi xảy ra những rạn nứt của trật tự hậu Chiến tranh Lạnh.
Bản sắc văn minh sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong tương lai, và thế giới sẽ được định hình chủ yếu bởi sự tương tác giữa bảy hoặc tám nền văn minh lớn. Chúng bao gồm nền văn minh phương Tây, Khổng giáo, Nhật Bản, Hồi giáo, Hindu giáo, Chính thống giáo Slavơ, Mỹ Latinh, và có thể là cả văn minh châu Phi. Những xung đột quan trọng nhất trong tương lai sẽ xảy ra dọc theo các đường đứt gãy văn hóa ngăn cách các nền văn minh này với nhau.
Tầm nhìn của Huntington về trật tự mới rõ ràng là u ám hơn so với Fukuyama, dù cả hai đều có những mơ hồ. Fukuyama đã kết thúc bài luận của mình bằng cách lập luận rằng cái giá phải trả cho nền hòa bình vĩnh viễn sẽ là sự tẻ nhạt của chế độ kỹ trị, trong đó “sự táo bạo, lòng dũng cảm, trí tưởng tượng, và chủ nghĩa lý tưởng” của cuộc đấu tranh ý thức hệ sẽ nhường chỗ cho “những tính toán kinh tế, việc giải quyết vô tận các vấn đề kỹ thuật, các quan ngại về môi trường, và việc thỏa mãn nhu cầu phức tạp của người tiêu dùng.” Đối với ông, “hàng thế kỷ buồn tẻ” sắp tới sẽ tạo ra một cuộc khủng hoảng hiện sinh cho những cá nhân tìm kiếm sự công nhận xã hội trong một thế giới thiếu vắng cơ hội cho vinh quang chính trị.
Ngược lại, Huntington lập luận rằng bản sắc nhóm, dựa trên những khác biệt văn hóa vốn gây ra ác cảm, sẽ tồn tại lâu bền và sẽ chỉ thể hiện rõ ràng hơn khi các ý thức hệ phổ quát của Chiến tranh Lạnh suy yếu. Trong cuốn sách năm 1996 mở rộng lập luận từ bài viết gốc của mình, ông đã thấy trước một sự cân bằng mơ hồ dựa trên “các quốc gia cốt lõi” thực thi quyền thống trị trong “phạm vi ảnh hưởng” văn minh của riêng họ. Một mặt, “sự va chạm giữa các nền văn minh là mối đe dọa lớn nhất đối với hòa bình thế giới” là bởi vì sự nhấn mạnh vào khác biệt văn hóa không thể tránh khỏi đã tạo cơ sở cho sự thù địch không hồi kết. (Huntington cũng dự đoán rằng sự thù địch với những người nhập cư sẽ là đặc điểm xác định của chính trị trong nước trong một trật tự thế giới được xác định bởi sự va chạm giữa các nền văn minh.)
Mặt khác, miễn là mọi người trong trật tự mới nhận ra sự điên rồ khi cố gắng áp đặt hệ thống văn hóa của riêng họ lên các nền văn minh “xa lạ,” thì “một trật tự quốc tế dựa trên các nền văn minh là sự bảo vệ chắc chắn nhất chống lại chiến tranh thế giới.” Sự thù địch về văn hóa giữa các nền văn minh tuy không thể tránh khỏi, nhưng may mắn thay, “va chạm” có thể chỉ bao gồm những tiếng kêu ồn ào, thay vì xung đột bạo lực.
So với Fukuyama, bài luận và cuốn sách sau đó của Huntington đã nhận được sự chú ý nhiều hơn – và phần lớn là với giọng điệu phê phán. Các nhà sử học và nhân chủng học chỉ trích sự thiếu mạch lạc của phạm trù văn minh (mà chính Huntington thừa nhận là một phạm trù rất linh hoạt), trong khi các học giả quan hệ quốc tế chỉ ra rằng nhiều cuộc xung đột dữ dội nhất của thời đại – chẳng hạn như các cuộc chiến tàn khốc giữa người Hồi giáo Sunni và Shia, cũng như trên khắp châu Phi – đang diễn ra bên trong các nền văn minh, chứ không phải giữa các nền văn minh. Những người theo chủ nghĩa quốc tế, những người theo chủ nghĩa toàn cầu, và những người theo chủ nghĩa tự do ghét cuốn sách này không phải vì phân tích động lực chính trị của nó, mà vì tính phi đạo đức (amoralism) trắng trợn của nó.


Trong vài thập kỷ đầu tiên sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, trật tự quốc tế chủ yếu vận hành trong khuôn khổ quy chuẩn của Fukuyama. Từ giữa những năm 1990 đến giữa những năm 2010, các nhà lãnh đạo chính trị của các quốc gia, dù miễn cưỡng đến đâu, phần lớn đều tuân thủ các quy tắc “quốc tế tự do.” Châu Âu đã thúc đẩy việc hội nhập vào các cấu trúc hành chính của Liên minh Châu Âu. Các tranh chấp thương mại đã được trình lên WTO và các phán quyết của tổ chức này nhìn chung được tôn trọng. Tội phạm chiến tranh bị truy tố không đồng đều, nhưng một khi đã bị bắt, họ sẽ bị đưa ra trước các tòa án pháp lý quốc tế chính thức, có thể là Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ (được thành lập năm 1993), Tòa án Hình sự Quốc tế về Rwanda (được thành lập năm 1994) hoặc Tòa án Hình sự Quốc tế (được thành lập năm 2002).
Và khi Mỹ quyết định tiến hành chiến tranh – như họ đã làm ở Balkan vào những năm 1990, Iraq vào năm 2003, và Libya vào năm 2011 – họ đều tìm kiếm sự chấp thuận pháp lý của một số thực thể quốc tế, có thể là Liên Hiệp Quốc hoặc NATO (dù họ sẽ không để lá phiếu chống ngăn chặn mình). Thật vậy, George W. Bush đã nhiều lần cố gắng hết sức để nhấn mạnh rằng cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu và việc thay đổi chế độ ở Iraq đang được tiến hành theo các định nghĩa của Fukuyama chứ không phải Huntington: “Khi nói đến các quyền và nhu cầu chung của mọi đàn ông và phụ nữ, thì không có sự va chạm giữa các nền văn minh,” ông nhấn mạnh. “Các yêu cầu về tự do được áp dụng đầy đủ cho châu Phi, châu Mỹ Latinh, và toàn bộ thế giới Hồi giáo. Người dân các quốc gia Hồi giáo mong muốn và xứng đáng có các quyền tự do và các cơ hội giống như người dân ở mọi quốc gia khác. Và chính phủ của họ nên lắng nghe hy vọng của họ.”
Ngay cả Nga, kẻ thua cuộc địa chính trị lớn nhất trong thỏa thuận hậu Chiến tranh Lạnh, và do đó không có gì ngạc nhiên khi là cường quốc bất đồng chính kiến lớn tiếng nhất, cũng thể hiện sự tôn trọng đối với trật tự mới bằng cách chỉ cố gắng sáp nhập trên thực tế (de facto) – chứ không phải theo luật pháp (de jure) – các phần lãnh thổ của các nước láng giềng đã bị họ xâm lược, bao gồm Transnistria từ Moldova sau năm 1992 và Abkhazia và Nam Ossetia từ Gruzia sau năm 2008. Mỗi trường hợp này có thể được xem như cái xấu giả vờ tôn trọng cái tốt, nhưng dù sao thì nó cũng là sự tôn trọng.

Về vấn đề này, nếu nói theo kiểu Fukuyama (tức là Hegel), thì mọi thời đại đều chứa đựng mầm mống của thời đại kế tiếp – thời đại đi sau sẽ xuất hiện dưới dạng các lực lượng đối lập với trật tự thống trị. Vào đầu những năm 2010, những vết nứt trong kiến trúc quy chuẩn hậu lịch sử đã bắt đầu lộ rõ. Ngày càng nhiều các cường quốc mới nổi, tự nhận diện mình theo các thuật ngữ văn minh mà Huntington đã mô tả hai thập kỷ trước đó, bắt đầu công khai phản đối các giá trị phổ quát được cho là nền tảng của trật tự quốc tế tự do. Từ thập niên năm 1990, các nhà lãnh đạo của một số quốc gia nhỏ hơn như Singapore và Malaysia đã thúc đẩy ý tưởng về “các giá trị châu Á” (khác biệt với các giá trị phương Tây), và đến năm 2014, cả Putin và Tập đều công khai mô tả Nga và Trung Quốc là “các nền văn minh” với các giá trị riêng biệt, không tương xứng với (và theo quan điểm của họ là tốt hơn) các nền dân chủ phương Tây.
Sau một thập kỷ, khi nhìn lại, năm 2014 dường như là năm then chốt khi sự thối nát của trật tự quốc tế tự do bắt đầu chuyển sang hoại tử. Việc Nga sáp nhập bán đảo Crimea theo luật vào năm đó đại diện cho một rạn nứt rõ ràng, một sự bác bỏ công khai đối với một trong những trụ cột chính của trật tự quốc tế tự do, cụ thể là biên giới không được phép thay đổi bằng vũ lực. Điều đáng chú ý là Putin đã biện minh cho hành động của mình trên cơ sở “văn minh,” lập luận rằng Crimea luôn là một phần của “thế giới Nga.” Tương tự, việc Narendra Modi và Đảng BJP thay thế Đảng Quốc đại đa nguyên vào năm 2014 đã được diễn giải bằng hệ tư tưởng Hindutva, xem Ấn Độ là một quốc gia văn minh dựa trên tôn giáo Hindu (và bỏ qua hàng trăm triệu người Ấn Độ không theo đạo Hindu). Và sự xuất hiện của Tập Cận Bình với tư cách là một nhà lãnh đạo hàng đầu không quan tâm đến sự mơ hồ chiến lược về khả năng tự do hóa của Trung Quốc, và ngày càng quan tâm đến đối đầu ý thức hệ trực tiếp đã báo hiệu kết thúc cho tầm nhìn không tưởng của Fukuyama. Đến giữa những năm 2000, “làn sóng dân chủ thứ ba” trông giống một lá cờ giả hơn là bước phát triển mạnh mẽ của tương lai.
Theo quan điểm này, một phần tư thế kỷ qua chính là một quá trình ủ mầm lâu dài cho dự đoán của Huntington. Giờ đây, rõ ràng là Huntington không sai khi phác thảo đường nét của trật tự mới nổi thời hậu Chiến tranh Lạnh, chỉ là trực giác của ông đã đến quá sớm. Ông đã chỉ ra những lực lượng chống đối sẽ phát triển bên trong trật tự đó, chờ đợi thời khắc để nổi lên làm cơ sở cho trật tự tiếp theo – chính là những gì đã nổi lên và kêu gào trong suốt thập kỷ qua.
Nhìn từ đỉnh cao của chủ nghĩa quốc tế tự do lạc quan vào cuối những năm 1990, thời khắc hiện tại của chúng ta có lẽ được mô tả chính xác nhất là “sự trả thù của Huntington”: Giấc mơ về một sự đồng thuận toàn cầu ủng hộ nền dân chủ tự do và chủ nghĩa tư bản toàn cầu được quản lý theo chế độ kỹ trị đã chết, và va chạm văn minh đang lên ngôi gần như ở khắp mọi nơi, từ Moscow và Bắc Kinh đến Delhi và Istanbul – và giờ đây là cả ở Washington, D.C.
Trong trật tự mới này, vận may sẽ tập trung vào (dù có thể không ưu ái) những kẻ táo bạo và quyết đoán, hơn là những người lịch sự và có trật tự. Thay vì chịu đựng sự buồn tẻ của các quy tắc hành chính hậu lịch sử, chúng ta sẽ tận hưởng sự phấn khích đẫm máu của một hệ thống quốc tế với răng nanh và móng vuốt bạo tàn. Sự tàn nhẫn sẽ được khen thưởng, sự yếu đuối sẽ bị khai thác. Ắt hẳn Huntington đang mỉm cười từ nấm mồ của mình.
Nils Gilman là một nhà sử học và là giám đốc điều hành của Viện Berggruen.