Bản đồ mới của Trump và vận mệnh NATO

Nguồn: Robert D. Kaplan, “Trump’s New Map,” Foreign Policy, 25/02/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Vị tổng thống đầu tiên của nước Mỹ trong thời kỳ hậu đọc hiểu lịch sử chỉ còn biết dựa vào địa lý.

Trong bài phát biểu mang tính tiên tri tại Brussels vào tháng 06/2011, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi đó là Robert M. Gates đã cảnh báo các đồng minh châu Âu của Washington rằng: nếu họ không bắt đầu chi nhiều hơn đáng kể cho an ninh của chính họ, NATO một ngày nào đó có thể sẽ trở thành dĩ vãng. Gates lưu ý rằng ông chỉ là “người mới nhất trong một loạt các bộ trưởng quốc phòng Mỹ đã thúc giục các đồng minh, cả riêng tư lẫn công khai, thường là với sự bực tức, yêu cầu họ đáp ứng các tiêu chuẩn đã thỏa thuận của NATO về chi tiêu quốc phòng.”

Vào thời điểm đó, chỉ có năm trong số 28 thành viên của NATO – Albania, Anh, Pháp, Hy Lạp, và Mỹ – chi ít nhất 2% GDP của họ cho quốc phòng hàng năm, như họ đã cam kết vào năm 2006. Gates nói rằng, trừ phi tình hình đó thay đổi đáng kể, nếu không sẽ có “sự suy giảm mong muốn” bảo vệ châu Âu trong “chính giới Mỹ nói chung.”

Châu Âu cuối cùng cũng thay đổi, nhưng có lẽ không đủ nhanh. Ngày nay, đã có hai phần ba số thành viên NATO đạt chuẩn 2%. Nhưng xét đến cuộc chiến của Nga ở Ukraine và yêu cầu của Tổng thống Mỹ Donald Trump rằng các đồng minh phải tăng chi tiêu lên 5%, châu Âu vẫn còn phải đi một chặng đường dài. Trump từ lâu đã chế giễu NATO. Năm ngoái, ông nói rằng mình sẽ khuyến khích người Nga “làm bất cứ điều gì họ muốn” với bất kỳ quốc gia NATO nào không chịu trả nhiều tiền hơn cho nền quốc phòng của mình. Trong khi đó, Phó Tổng thống J.D. Vance nói rằng Mỹ có thể ngừng hỗ trợ cho NATO nếu Liên minh châu Âu cố gắng quản lý các nền tảng kinh doanh của Elon Musk.

Sự bất đồng về phân bổ ngân sách chỉ ra một vấn đề sâu sắc hơn: Quá nhiều người Mỹ, như thể hiện qua lời lẽ dân túy của Trump và Vance, không còn quan tâm nhiều đến việc bảo vệ châu Âu nữa.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Pete Hegseth và vợ, Jennifer Rauchet, theo dõi một buổi lễ của quân đội tại Warsaw vào ngày 14/02. © Omar Marques/Getty Images

Sự thay đổi trong thái độ của Mỹ đối với châu Âu không có gì đáng ngạc nhiên. NATO đã tồn tại gần 80 năm. Đó là một khoảng thời gian dài đối với lịch sử hiện đại, đặc biệt là trong kỷ nguyên của những thay đổi công nghệ nhanh chóng vốn đã ảnh hưởng đến thông tin, kinh tế, du lịch hàng không, mô hình di cư, và chính bản sắc.

Khi NATO được thành lập sau Thế chiến II, Mỹ đang thống trị thế giới với hơn một nửa tổng năng lực sản xuất-chế tạo toàn cầu. Con số đó giờ đây đã giảm xuống còn khoảng 16%. Trong thời kỳ hậu chiến, cũng dễ hiểu khi Mỹ vừa lãnh đạo vừa tài trợ cho liên minh mới; xét cho cùng, các thành phố châu Âu vẫn đang bốc khói vì bom đạn trên không, trong khi Liên Xô của Joseph Stalin dần nổi lên như một mối đe dọa chết người đối với Tây Âu. Tuy nhiên, sau nhiều thập kỷ, động lực đó đã phát triển. Với an ninh phần lớn được Mỹ chi trả, châu Âu đã xây dựng các quốc gia với hệ thống phúc lợi xã hội đáng ghen tị, nơi người dân được hưởng cuộc sống tốt đẹp. Sau khi Stalin qua đời, phương Tây đạt được sự hòa hoãn với Liên Xô, và Liên Xô sau đó sụp đổ.

NATO đã sống sót qua những thập kỷ sau Chiến tranh Lạnh và sự tái sinh của chủ nghĩa đế quốc Nga – một giai đoạn bao gồm sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy và chính trị bản sắc ở phương Tây – phần lớn là do liên minh được lãnh đạo bởi những người có ký ức sâu sắc về Thế chiến II và giai đoạn đầu Chiến tranh Lạnh, hoặc lớn lên cùng và ngưỡng mộ những người có ký ức đó. Tuy nhiên, ký ức lịch sử sống động đó đang dần tan biến. Trong quá trình này, người Mỹ đã khám phá lại một khía cạnh cũ hơn, cổ xưa hơn trong bản sắc của chính họ – một khía cạnh đã bị người châu Âu lãng quên từ lâu. Châu Âu luôn biết rằng Mỹ là một lục địa nằm giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, nhưng kiến thức đó chưa bao giờ được nội hóa đủ để ảnh hưởng đến cách hành xử của họ.

Bản sắc Mỹ, chí ít là kể từ đầu thế kỷ 20, đã được định hình bởi hai hiện tượng: một là địa lý và hai là chủ nghĩa Wilson. Hiện tượng địa lý có vẻ hiển nhiên, nhưng đối với quá nhiều người – đặc biệt là giới tinh hoa châu Âu – thì thực ra không phải vậy.

Khu vực ôn đới Bắc Mỹ, mà nước Mỹ chiếm phần lớn, là vùng đất hoàn hảo cho một quốc gia, với các cảng nước sâu dọc theo Bờ Đông và các tuyến đường đi xuyên Dãy Appalachia đến tận vùng đất màu mỡ rộng lớn của thảo nguyên. Sa mạc Mỹ Lớn, hay còn được gọi là Đại Bình nguyên, khô cằn đã trở thành một rào cản tự nhiên thực sự, nhưng một tuyến đường sắt xuyên lục địa đã được xây dựng để đưa dân cư vượt qua Dãy Rocky đến Thái Bình Dương. Địa lý đã tạo nên một quốc gia gắn kết, tách biệt với thế giới bên ngoài bởi hai đại dương, và có quá nhiều điều đang diễn ra bên trong quốc gia đó – với tất cả những rắc rối và tiềm năng của riêng nó – khiến cho phần còn lại của thế giới bị lu mờ.

Tuy nhiên, một khi đã đến được Thái Bình Dương, không chỉ có một mà là hai bờ biển cần xem xét, chưa kể Bờ Vịnh nằm giữa Florida và Texas. Điều này đã mở ra những tuyến đường biển lớn, có thể liên lạc với cả châu Âu và châu Á, đồng thời tạo điều kiện cho giao thương mạnh mẽ với thế giới bên ngoài.

Một bức chân dung không ghi ngày tháng của Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson. © Hulton Archive/Getty Images

Đây là lúc khía cạnh thứ hai của bản sắc Mỹ xuất hiện: Chủ nghĩa Wilson – một cách gọi ngắn gọn của hệ tư tưởng xem việc đạt được tự do vượt xa bờ biển Mỹ là điều cần thiết cho an ninh của chính nước Mỹ. Dù Woodrow Wilson, Tổng thống Mỹ thứ 28, đã không thể đưa đất nước vào một trật tự quốc tế sau Thế chiến I, nhưng ông đã tạo ra một mục tiêu để đất nước phấn đấu – ngay khi tàu hơi nước và máy bay bắt đầu đưa họ đến gần châu Âu hơn. Phải đến khi xảy ra Thế chiến II và những năm sau đó, biến Washington trở thành cường quốc hàng đầu thế giới, thì người ta mới có thể hiện thực hóa lý tưởng của Wilson về việc thiết lập một thành trì của tự do và dân chủ ở một phần lớn lục địa châu Âu.

Dù tất cả những điều này có vẻ hiển nhiên và đáng khao khát trong những năm thời hậu chiến, nhưng xét về mặt địa lý, nó lại không hoàn toàn tự nhiên. Nó đòi hỏi sự hiểu biết về những hy sinh mà người Mỹ đã thực hiện vì một thế giới tốt đẹp hơn, kết hợp với mối quan hệ lịch sử dựa trên nguồn gốc châu Âu của Washington – một nguồn gốc về triết học hơn là về huyết thống và đất đai. Và sự hiểu biết đó đòi hỏi người ta phải đọc sách, điều mà giới tinh hoa cho là lẽ dĩ nhiên, nhưng họ không nên làm thế. Tám mươi năm đã trôi qua, truyền thống này giờ đây chỉ có thể được trân trọng thông qua sách vở và giáo dục, vì ký ức sống động về việc thành lập liên minh Đại Tây Dương đã biến mất, giống như cách mà Chiến tranh Lạnh đang dần phai nhạt khỏi ý thức của mọi người.

Trump không phải là người kế thừa truyền thống này. Ông không thực sự đọc. Ông là người hậu đọc hiểu lịch sử (post-literate) – tức là ông tồn tại trong thế giới của mạng xã hội và điện thoại thông minh, chứ không đắm mình vào việc nghiên cứu lịch sử, dù chỉ để có những hiểu biết cơ bản.

Do đó, ông cũng không trân trọng câu chuyện hậu chiến của phương Tây. NATO chỉ là một từ viết tắt đối với ông, chứ không phải là biểu tượng của liên minh quân sự lớn nhất trong lịch sử loài người, liên minh được hình thành từ cuộc chiến chống lại chủ nghĩa phát xít Đức. Ông có thể không biết gì về Hiến chương Đại Tây Dương – được ký bởi Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill ngoài khơi bờ biển Newfoundland, Canada, vào tháng 08/1941 – văn kiện đã vạch ra một tầm nhìn đầy cảm hứng cho một thế giới hậu chiến, hoặc về việc xây dựng một trật tự hậu chiến bởi các nhà ngoại giao và chính khách vĩ đại của Mỹ, như Averell Harriman và George Kennan.

Giới tinh hoa chính sách đối ngoại Mỹ đã trưởng thành nhờ những câu chuyện lịch sử đầy cảm hứng như vậy. Nhưng Trump và những người ủng hộ ông có lẽ không quen thuộc với những điều này. Và do sự phát triển của công nghệ, ông có thể không phải là vị tổng thống cuối cùng có những suy nghĩ như vậy.

Vì Trump không quan tâm đến lịch sử, ông chỉ có thể dựa vào địa lý. Ông đã tưởng tượng Mỹ là một lục địa tồn tại độc lập, và ông ghi nhận sự gần gũi tương đối của những nơi như Greenland và Panama, nơi ông đã thề sẽ giành lại. Trong tâm trí của Trump, Greenland và Kênh đào Panama là sự mở rộng hữu cơ của logic địa lý Mỹ, đặc biệt là trong thời đại có khả năng sẽ chứng kiến nhiều hoạt động hải quân hơn ở Bắc Cực.

Một yếu tố khác cần xem xét là công nghệ đã thu hẹp địa lý. Đây là một thay đổi dễ bỏ qua, vì nó diễn ra rất chậm. Khủng hoảng ở một nơi trên thế giới có thể ảnh hưởng đến khủng hoảng ở những nơi khác theo cách chưa từng có. Những người hiểu sâu biết rộng về lịch sử xem sự phát triển này là lý do khiến Mỹ nên củng cố các liên minh trên toàn thế giới. Nhưng trong thế giới quan nguyên thủy và tất định hơn của Trump, đây là thời điểm để củng cố phạm vi ảnh hưởng ở khu vực trong một thế giới ngột ngạt hơn của những xung đột vĩnh cửu.

Điều mà Trump dường như đang nghĩ đến là một Bắc Mỹ rộng lớn hơn, trải dài từ Kênh đào Panama đến Greenland, với Canada phụ thuộc vào Mỹ. Vận mệnh hiển nhiên trong “câu chuyện thần thoại” của Trump giờ đây đã bắt đầu hoàn thiện: Những gì từng có nghĩa là chinh phục vùng đất ôn đới Bắc Mỹ từ đông sang tây giờ đây đòi hỏi một cuộc chinh phục từ bắc xuống nam. Nỗ lực đổi tên Vịnh Mexico thành “Vịnh Mỹ” của Trump đã nói lên tất cả.

Về phần mình, châu Âu đang trở nên yếu kém và chia rẽ hơn, bị đe dọa bởi Nga ở phía đông và tình trạng bất ổn chính trị do làn sóng di cư từ Trung Đông và châu Phi ở phía nam. Như tôi đã viết trong cuốn sách năm 2018 của mình, The Return of Marco Polo’s World (Sự trở lại của Thế giới Marco Polo), “trong lúc châu Âu dần biến mất, Á-Âu lại gắn kết hơn.” Tôi đã giải thích rằng châu Âu cuối cùng sẽ hợp nhất với hệ thống quyền lực Á-Âu. Cuộc chiến ở Ukraine – vốn đưa Nga vào các liên minh sâu hơn với Trung Quốc, Iran, và Triều Tiên – đã chứng minh cho lý thuyết này. Trong thế giới nhỏ bé ngày nay, châu Âu không thể tách mình khỏi những biến động ở Phi-Á-Âu, khiến cho họ trở nên kém giá trị hơn trên bản đồ mới của Trump. Và đó là những gì xảy ra khi chủ nghĩa Wilson sụp đổ.

Trong nhiều năm, người châu Âu đã lo lắng về việc Mỹ dành quá nhiều sự chú ý đến Trung Quốc và phần còn lại của Đông Á. Nhưng vấn đề còn sâu xa hơn thế. Trump có lẽ đã xem Trung Quốc như một lục địa và một khối quyền lực riêng biệt, giống như nước Mỹ. Ông có thể phát động một cuộc thương chiến với Trung Quốc, hoặc có thể không. Ông thậm chí có thể cố gắng cải thiện quan hệ với Bắc Kinh. Điểm mấu chốt là, trong quan điểm của Trump về một Trái Đất bị phân chia thành các khu vực, tầm quan trọng của Trung Quốc được thừa nhận, trong khi châu Âu, dù có cả NATO và Liên minh châu Âu, lại chưa đủ thống nhất để có ý nghĩa gì nhiều.

Trump cũng ghét giới tinh hoa và các dự án của họ, và NATO chính là dự án tinh hoa tối thượng. Nếu các thành viên của liên minh này chịu lắng nghe lời khiển trách của Gates vào năm 2011 và tăng ngân sách quốc phòng sớm hơn, Trump có lẽ đã có cái nhìn khác với bây giờ. Ngay cả khi ông không làm vậy, thì chí ít ông cũng không thể dùng lý do ngân sách quốc phòng nhỏ bé của châu Âu để công kích các đồng minh NATO, điều đó sẽ làm cho luận điểm của ông ấy yếu đi rất nhiều.

Vị tổng thống đầu tiên của nước Mỹ ở thời kỳ hậu đọc hiểu lịch sử báo hiệu một thách thức mà châu Âu chưa từng phải đối mặt kể từ khi Washington ra tay giải cứu họ vào năm 1941. Chiến tranh Lạnh và những năm sau đó, khi các nước Trung và Đông Âu từng bị kìm kẹp lần lượt gia nhập NATO, có thể sẽ được nhìn lại như một thời kỳ yên bình trong dĩ vãng.

Robert D. Kaplan là tác giả của “Waste Land: A World in Permanent Crisis.” Ông hiện là Giám đốc về Địa chính trị tại Viện Nghiên cứu Chính sách Đối ngoại.