Về chính sách đối ngoại của Giáo hoàng Francis

Nguồn:  Victory Gaetan, “The Pope’s Foreign Policy”, Foreign Affairs, 25/04/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Cách Đức Giáo hoàng Francis mở rộng và biến đổi phạm vi ảnh hưởng toàn cầu của Vatican.

Sau khi Đức Giáo hoàng Francis qua đời, vào ngày 21 tháng 4, phần lớn sự chú ý của thế giới tập trung vào tính cách của ông: sự khiêm tốn, sự hài hước, phong cách quản lý thực tiễn. Tất cả những đức tính đó sẽ theo ông xuống mồ. Trong khi đó, những đóng góp của vị giáo hoàng người Argentina cho nền ngoại giao Vatican sẽ là một di sản lâu dài. Giáo hoàng Francis đã vạch ra một đường lối ngoại giao độc lập với các cường quốc phương Tây, nâng cao vị thế của các nhà lãnh đạo Công giáo ở những quốc gia chưa bao giờ tham gia vào bộ máy quản trị của Giáo hội, và rèn giũa một phương pháp ngoại giao vừa thực dụng vừa đầy khát vọng.

Thông qua những nỗ lực đó, Giáo hoàng Francis đã hàn gắn các mối quan hệ vốn đã xấu đi dưới thời những người tiền nhiệm của ông và để lại một mạng lưới ngoại giao được củng cố với khả năng tiếp cận trên toàn thế giới. Người kế nhiệm ông giờ đây phải tận dụng thiện chí to lớn đã tích lũy được dưới thời Francis để thúc đẩy các ưu tiên của Giáo hội về lòng trắc ẩn, công lý và hòa bình. Các công cụ để triển khai nền ngoại giao giáo hoàng có ý nghĩa và sâu rộng đã sẵn sàng. Câu hỏi đặt ra là liệu vị giáo hoàng kế tiếp có đủ năng lực để tận dụng tối đa lợi thế lớn này hay không.

Một Giáo hội hướng ra bên ngoài

Chuyến công du dài nhất của Giáo hoàng Francis, hành trình kéo dài 12 ngày qua Indonesia, Papua New Guinea, Đông Timor và Singapore vào tháng 9 năm ngoái, đã minh họa nhiều ưu tiên ngoại giao của ông. Một trong số đó là cải thiện quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và thế giới Hồi giáo, đặc biệt là với những người theo đạo Hồi Sunni. Mối quan hệ này đã xuống dốc dưới thời người tiền nhiệm của Giáo hoàng Francis, Giáo hoàng Benedict XVI. Năm 2006, Giáo hoàng Benedict XVI đã có một bài phát biểu mà nhiều người Hồi giáo coi là xúc phạm Tiên tri Muhammad. Và vào năm 2011, một trong những nhà lãnh đạo Sunni có thẩm quyền cao nhất thế giới, Đại Imam Đền thờ Al Azhar Ahmed al-Tayeb, đã cắt đứt quan hệ với Vatican vì những bình luận của Giáo hoàng Benedict XVI sau một vụ tấn công khủng bố ở Ai Cập. Giáo hoàng Francis đã có thể hàn gắn mối quan hệ với Tayeb và cuối cùng xây dựng một tình bạn hiệu quả. Hai nhà lãnh đạo đã cùng nhau xuất hiện vào năm 2019 tại Abu Dhabi để ký một thỏa thuận chung mang tính bước ngoặt nhằm phản đối chủ nghĩa cực đoan tôn giáo trong một chuyến đi vốn đã mang tính lịch sử – đó là lần đầu tiên một giáo hoàng đến thăm Bán đảo Ả Rập.

Chuyến thăm Indonesia, quốc gia Hồi giáo đông dân nhất, của Giáo hoàng Francis đã tái khẳng định cam kết của ông đối với sự hợp tác giữa các tôn giáo. Ông đã tham dự một cuộc gặp với các nhà lãnh đạo tôn giáo khác tại Nhà thờ Hồi giáo Istiqlal ở Jakarta, nhà thờ Hồi giáo lớn nhất Đông Nam Á, và bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với cách tiếp cận lành mạnh của Indonesia đối với sự hòa hợp tôn giáo. Tượng trưng cho những mối liên hệ đó, Nhà thờ Hồi giáo Istiqlal được kết nối bằng một đường hầm dưới lòng đất với một nhà thờ Công giáo ở bên kia đường.

Giáo hoàng Francis cũng kêu gọi Giáo hội Công giáo bớt tính thể chế, hay khép kín, và mang tính truyền giáo hơn, hướng sự chú ý đến vùng ngoại vi của xã hội toàn cầu. Ông đã bổ nhiệm các hồng y, những người sẽ chọn người kế vị ông, từ các quốc gia trước đây có ít hoặc không có đại diện trong ban lãnh đạo của Giáo hội. Trong số những người được ông bổ nhiệm có các hồng y ở 25 quốc gia chưa từng có hồng y trước đây, bao gồm Papua New Guinea, Singapore và Đông Timor. Tất cả các giáo hoàng đều sử dụng các hồng y làm đặc phái viên, nhưng chưa có giáo hoàng nào sai họ đến nhiều nơi như vậy.

Mạng lưới các nhà lãnh đạo mới này phục vụ mục tiêu của Giáo hoàng Francis là làm cho Giáo hội bớt tập trung vào châu Âu hơn và tập trung hơn vào các quốc gia nơi Công giáo đang phát triển. Ông đã đến thăm 13 quốc gia ở châu Á và 9 quốc gia ở châu Phi trong triều đại của mình, một sự gia tăng đáng chú ý so với ba chuyến thăm châu Phi và không có chuyến đi nào đến châu Á của cố giáo hoàng Benedict XVI. Đông Timor, quốc gia có tỷ lệ người Công giáo cao nhất thế giới, là một ví dụ điển hình về ảnh hưởng ngày càng tăng của Giáo hội. Khi Indonesia xâm lược Đông Timor vào năm 1975, khoảng 20% cư dân là người Công giáo. Mười năm sau, con số đó là 95%. Trong thời gian Indonesia chiếm đóng quân sự, kéo dài đến năm 1999, Giáo hội đã bảo vệ những người bị đàn áp và công khai các ghi chép về những hành động tàn bạo, bao gồm các vụ thảm sát, mất tích cưỡng bức, hành quyết phi pháp, bỏ đói và cưỡng hiếp. Khi Giáo hoàng Francis đến thăm, gần một nửa dân số 1,3 triệu người của đất nước đã tham dự thánh lễ mà ông cử hành, bất chấp cái nóng khắc nghiệt. Phát biểu trên mảnh đất nơi quân đội Indonesia đã chôn cất các chiến sĩ tự do Timor, Giáo hoàng Francis đã cảnh báo về sự xâm nhập của các giá trị tự do phương Tây khuyến khích chủ nghĩa vật chất và ích kỷ.

Tầm nhìn đa cực

Giáo hoàng Francis thường trình bày quan điểm của mình về thế giới toàn cầu hóa không phải là một hình cầu mà là một hình đa diện, một phép ẩn dụ mà ông nói “diễn tả cách sự thống nhất được tạo ra nhưng đồng thời bảo tồn bản sắc của các dân tộc, con người, của các nền văn hóa”. Ví dụ, ông đánh giá cao quyết tâm của Singapore trong việc đứng ngoài cuộc cạnh tranh địa chính trị và đón nhận đa cực. Và trong triều đại của Giáo hoàng Francis, chính Vatican đã nỗ lực mạnh mẽ để vượt qua các ranh giới địa chính trị, đặc biệt chú ý đến ngoại giao với Trung Quốc. Trước thời Giáo hoàng Francis, sự nghi ngờ lẫn nhau đã lấn át những nỗ lực giải quyết mối rạn nứt lâu dài giữa Bắc Kinh và Rome. Nhưng khi Trung Quốc chọn nhà lãnh đạo mới vào ngày đầu tiên Giáo hoàng Francis nhậm chức, giáo hoàng đã viết một bức thư chúc mừng cá nhân cho Tập Cận Bình. Ông Tập đáp lại một cách thân mật, gây ngạc nhiên cho một số nhân viên Vatican.

Giáo hoàng Francis có một tình cảm gắn bó lâu dài với Trung Quốc. Ông đã chọn Hồng y Pietro Parolin làm quốc vụ khanh, người đã lãnh đạo các cuộc đàm phán của Vatican với Bắc Kinh từ năm 2005 đến năm 2009 (và hiện là một trong những ứng cử viên hàng đầu kế nhiệm Giáo hoàng Francis). Một năm sau khi nhậm chức, Giáo hoàng Francis nói với tờ báo Ý Corriere della Sera rằng Vatican “gần gũi với Trung Quốc” và các nhà ngoại giao duy trì mối quan hệ ở cả hai bên. Những mối quan hệ đó rất quan trọng để giải quyết một bất đồng then chốt về việc bổ nhiệm giám mục: trong nhiều thập kỷ, Bắc Kinh đã khăng khăng tự bổ nhiệm giám mục Trung Quốc, bác bỏ giáo lý tôn giáo Công giáo trao quyền này cho giáo hoàng. Sau bốn năm đàm phán thầm lặng, vào năm 2018, Vatican và chính phủ Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận tạm thời để cùng bổ nhiệm giám mục. Thỏa thuận đó đã được gia hạn ba lần và 11 giám mục mới đã được chấp thuận theo các điều khoản của thỏa thuận.

Hai vị giáo hoàng trước Giáo hoàng Francis đã cố gắng và thất bại trong việc tìm ra một phương thức làm việc với Bắc Kinh. Giáo hoàng Francis đặc biệt kiên trì, chỉ thị cho các nhà ngoại giao của mình tiếp tục đối thoại với những người đồng cấp Trung Quốc ngay cả khi họ gặp thất bại. Trong các cuộc đàm phán trước đó, các quyết định đơn phương ở Bắc Kinh đã khiến các cuộc thảo luận đổ vỡ. Nhưng dưới thời Giáo hoàng Francis, Vatican không hề nản lòng và cuối cùng đã đạt được bước đột phá.

Sự xích lại gần nhau giữa Vatican và Trung Quốc đã được thể hiện tại một hội nghị ở Rome vào năm ngoái, đánh dấu một thế kỷ kể từ khi một đặc phái viên của giáo hoàng, Hồng y Celso Costantini, triệu tập một thượng hội đồng chính thức của các nhà lãnh đạo giáo hội ở đại lục Trung Quốc, dẫn đến việc bổ nhiệm sáu giám mục bản địa Trung Quốc. Các nhà truyền giáo nước ngoài đã lãnh đạo Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc trước khi thượng hội đồng năm 1924 bác bỏ thông lệ đó. Trong số những người tham gia hội nghị Rome năm ngoái có giám mục Thượng Hải, Giuse Thẩm Bân (Shen Bin), người đã có bài phát biểu bằng tiếng Quan Thoại giải thích rằng Bắc Kinh không muốn thay đổi đức tin Công giáo, nhưng mong đợi người Công giáo Trung Quốc bảo vệ văn hóa và giá trị bản địa. Đáng chú ý, Đức Giám mục Thẩm Bân đã được chính phủ Trung Quốc chuyển đến Thượng Hải từ một giáo phận khác mà không có sự đồng ý của Vatican. Động thái này có thể đã giáng một đòn chí tử vào thỏa thuận năm 2018, nhưng Giáo hoàng Francis thay vào đó đã quyết định chấp nhận nó, và thậm chí chào đón Giám mục Thẩm Bân đến các cuộc thảo luận chính sách cấp cao ở Rome.

Nền ngoại giao của Giáo hoàng Francis ở Trung Quốc đã vấp phải nhiều chỉ trích, đặc biệt là từ chính quyền Trump đầu tiên. Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo thậm chí đã viết một bài luận vào năm 2020 chỉ trích Vatican vì thỏa thuận với Bắc Kinh. (Đáp lại, Vatican đã từ chối yêu cầu gặp giáo hoàng của Pompeo vài tuần sau đó.) Nhưng việc bị coi là chống lại Washington đã nâng cao danh tiếng của Vatican về sự độc lập địa chính trị – một bản sắc mà Giáo hoàng Francis đã vun đắp. Ví dụ, sau khi trở về từ chuyến đi châu Á vào tháng 9 năm ngoái, ông đã nói với khán giả hàng tuần gồm hàng nghìn tín hữu ở Rome: “Chúng ta vẫn còn quá tập trung vào châu Âu, hay như họ nói, ‘phương Tây’. Nhưng trên thực tế, Giáo hội lớn hơn nhiều, lớn hơn nhiều so với Rome và châu Âu, lớn hơn nhiều!”

Ngoài cách tiếp cận với Trung Quốc, Giáo hoàng Francis còn tách khỏi các cường quốc phương Tây trong phản ứng của mình đối với cuộc chiến ở Ukraine. Ông phản đối các lệnh trừng phạt chống lại Nga, theo lập trường lâu đời của giáo hội rằng các lệnh trừng phạt không nên được sử dụng như một vũ khí ngoại giao vì chúng gây hại đến phúc lợi của người dân thường. Giáo hoàng Francis cũng ưu tiên mối quan hệ với Giáo hội Chính thống Nga. Các giáo hoàng kể từ Giáo hoàng John XXIII, người phục vụ từ năm 1958 đến năm 1963, đã theo đuổi sự hòa giải giữa Công giáo và Chính thống giáo, và việc củng cố mối quan hệ của Vatican với Thượng phụ Moscow là một trong những thành tựu ngoại giao lớn nhất của Giáo hoàng Benedict XVI. Giáo hoàng Francis đã phát triển một tình bạn thân thiết với lãnh đạo của Giáo hội Chính thống Đông phương, Thượng phụ Đại kết Bartholomew của Constantinople, và mở rộng hoạt động tiếp cận của Giáo hoàng Benedict XVI với Giáo hội Chính thống Nga. Tại một sân bay ở Havana, Cuba, vào năm 2016, ông trở thành giáo hoàng đầu tiên gặp trực tiếp một thượng phụ Nga. Tuy nhiên, chữ ký của ông trong một thỏa thuận chung với Thượng phụ Kirill đã làm bất an một số người Công giáo Ukraine.

Khi xung đột leo thang ở Ukraine, Giáo hoàng Francis từ chối dựng lên hình ảnh quỷ dữ về Nga. Thay vào đó, ông nói về thảm kịch “huynh đệ tương tàn” giữa các anh em Kitô hữu. Giáo hoàng Francis thường cáo buộc những kẻ buôn bán vũ khí kích động chiến tranh. Ông thậm chí còn dám gợi ý rằng việc bành trướng của NATO – mà ông mô tả là “NATO lăm le trước cửa Nga” – đã góp phần vào quyết định xâm lược của Nga. Chắc chắn, ông lên án chiến tranh và cầu nguyện công khai cho “người dân Ukraine tử đạo”, ngay cả từ giường bệnh, nhưng ông không bao giờ đưa ra lời buộc tội cá nhân nào đối với Tổng thống Nga Vladimir Putin.

Nhà ngoại giao kế tiếp

Ngay cả khi một số lập trường của ông có thể gây tranh cãi, Giáo hoàng Francis đã làm cho nền ngoại giao Công giáo đúng đắn trở lại. Ông trao quyền cho bộ máy ngoại giao của Vatican, thêm một bộ phận mới vào Quốc vụ viện để hỗ trợ nhân sự ngoại giao. Ông tăng cường nỗ lực hòa bình bằng cách bổ nhiệm các hồng y ở các khu vực xung đột, bao gồm Syria và Jerusalem, khu vực tài phán sau này bao gồm Síp, Jordan, Israel và các vùng lãnh thổ Palestine, được lãnh đạo bởi Hồng y Pierbattista Pizzaballa, hiện là ứng cử viên kế nhiệm Giáo hoàng Francis. Giáo hoàng Francis cũng củng cố các cộng đồng Công giáo nhỏ bằng cách bổ nhiệm các hồng y lần đầu tiên ở Bangladesh, Iran và Pakistan phần lớn theo đạo Hồi, và Mông Cổ, Myanmar và Singapore phần lớn theo đạo Phật. Giáo hoàng Francis đã bổ nhiệm một nhà ngoại giao người Ấn Độ, Hồng y George Koovakad để lãnh đạo bộ tập trung vào đối thoại liên tôn giáo.

Các giá trị và chiến lược mà Giáo hoàng Francis mang đến cho quan hệ quốc tế bắt nguồn từ phúc âm; chúng không phải là duy nhất đối với ông. Hơn nữa, phong cách ngoại giao của ông còn được giảng dạy cho đội ngũ các linh mục-nhà ngoại giao của Vatican tại trường đào tạo ngoại giao lâu đời nhất thế giới, Học viện Ngoại giao Giáo hoàng. Hồng Y Parolin, quốc vụ khanh và kiến trúc sư chính sách đối ngoại của Giáo hoàng Francis, đã theo học trường này.  Nếu ông được bầu làm người kế nhiệm Giáo hoàng Francis, ông sẽ tiếp tục công việc mà ông đã bắt đầu dưới thời Giáo hoàng Francis 12 năm trước. Nhưng Giáo hoàng Francis cũng đã nâng cao vị thế của rất nhiều nhà lãnh đạo tài năng khác với những năng khiếu ngoại giao tiềm năng. Nếu người kế nhiệm ông được chọn từ Nam bán cầu, các chiến dịch truyền giáo của ông có thể sẽ tiếp tục. 135 hồng y sẽ bầu giáo hoàng tiếp theo có thể sẽ chọn con đường này. Xét thấy 108 trong số họ đã được Giáo hoàng Francis, người thường được gọi là vị giáo hoàng của những bất ngờ, tấn phong hồng y, rất có khả năng mật nghị bầu giáo hoàng lần này cũng sẽ làm thế giới ngạc nhiên.

VICTOR GAETAN là phóng viên quốc tế cấp cao của tờ National Catholic Register và là tác giả của cuốn sách “God’s Diplomats: Pope Francis, Vatican Diplomacy, and America’s Armageddon” (Các nhà ngoại giao của Chúa: Giáo hoàng Francis, Ngoại giao Vatican và Ngày tận thế của Mỹ).