Tác giả: Hồ Bạch Thảo
Xem thêm: Các bài khác trong chuỗi bài “Lịch sử Việt Nam thời tự chủ”
Tháng 4 năm Kỷ Dậu, tức năm Bảo Thái thứ 10 [28/4-27/5/1729],[1] Chúa Trịnh Cương ép Vua Lê Dụ Tông truyền ngôi cho Thái tử Duy Phường. Duy Phường là cháu ngoại Trịnh Cương, trước đây 2 năm được lập làm Thái tử để chuẩn bị nối ngôi. Nay lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Vĩnh Khánh năm thứ nhất, ân xá người trong nước. Tôn Vua Lê Dụ Tông làm Thái thượng hoàng, lui ra ở điện Kiền Thọ.
Tháng 7 [26/7-23/8/1729] lụt lớn, nước sông Nhị Hà tràn ngập, đường đê nhiều chỗ bị vỡ. Triều đình sai bọn Tả thị lang Hồ Phi Tích đào sông Nghĩa Trụ [huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh][2] để cho thủy thế lưu thông. Một mặt mở kho thóc Vị Hoàng [Nam Định] chẩn cấp cho dân bị thủy tai. Những ruộng cấy lúa mùa, bị ngập lụt được cấp cho thóc giống. Lại sai quan khuyến nông chia ra từng đạo đi khám xét, chia dân lưu vong làm 4 hạng, bàn định thi hành việc cứu vớt.
Chúa Trịnh Cương lại cho sửa phủ đệ ở Cổ Bi [huyện Gia Lâm, Bắc Ninh]. Lúc ấy nước sông lên to, đê Cự Linh tại huyện Gia Lâm bị vỡ, nước tràn vào Cổ Bi, nhà cửa bị nước cuốn đi và đổ nát. Cương sai hoạn quan đốc suất quân và dân sửa chữa dinh thự đường sá.
Tháng 10 [21/11-19/12/1729], Vua Lê Duy Phường tôn mẹ là Trịnh thị làm Hoàng thái hậu, sách phong chính phi họ Trịnh làm Hoàng hậu.
Chúa Trịnh Cương mất, con là Giang nối ngôi. Sau khi ở Phật Tích [huyện Tiên Du, Bắc Ninh] trở về, Trịnh Cương lại đi Như Kinh [xã Như Quỳnh, Hưng Yên], khi đi giữa đường, mắc bệnh rồi chết ngay, phải bí mật đưa về phủ, mới phát tang. Cương giữ ngôi chúa 22 năm, khi mất, truy xưng Nhân Vương, hiệu là Hi Tổ, Trịnh Giang là con cả của Cương. Trước kia, Giang làm Thế tử, viên Bảo phó của Giang là Nguyễn Công Hãng, mật trình với Cương rằng:
“Giang là người ngu tối ươn hèn, không thể gánh vác được công việc.”
Cương chần chừ chưa quyết định, nhưng đến lúc Cương mất bất ngờ, Giang bèn nối ngôi. Sau Công Hãng cũng vì việc ấy nên liên lụy, bị tội chết.
Tháng 11 [20/12/1729-18/1/1730] sai sứ sang nhà Thanh. Sứ bộ có Chánh sứ Đinh Phụ Ích, Phó sứ là bọn Đoàn Bá Dong và Quản Danh Dương, sang dâng lễ tuế cống và tạ ơn Vua nhà Thanh ban cho bức ngự thư[3] cùng việc trả lại xưởng đồng Tụ Long.
Đến cuối năm sau sứ bộ đến Bắc Kinh, được tiếp đãi, ban yến và tặng đồ vật:
“Ngày 7 Tân Sửu tháng chạp năm Ung Chính thứ 8 [14/1/1731]. Quốc vương An Nam Lê Duy Ðào sai Bồi thần Ðinh Phụ Ích dâng biểu tạ ơn cùng tiến cống sản vật địa phương. Ban yến và thưởng như lệ.” (Thanh Thực Lục, Thế Tông Thực Lục quyển 101, trang 3)
Tháng 2 năm Canh Tuất, Vĩnh Khánh thứ 2 [19/3-16/4/1730], tức năm Ung Chính thứ 8 nhà Thanh, giảm bớt thuế tô, dung, điệu tại 4 trấn và Thanh, Nghệ, nơi nhiều nơi ít khác nhau. Vào tháng 5 năm Bảo Thái thứ 4 [3/6-1/7/1723], theo lời tâu của Nguyễn Công Hãng, cho thi hành đánh thuế tô, dung và điệu, khắc nghiệt quá chừng, nhân dân phần nhiều phẫn uất. Đến nay, Công Hãng bàn sửa đổi lại. Hãng nói: Thi hành phép điệu, chú ý muốn cho dân được tiện lợi, nhưng vì sự chi ra thu vào phiền phức, bọn quan lại nhân đấy làm gian. Vậy xin hạ lệnh cho viên quan có trách nhiệm ở 4 trấn và phủ Trường Yên [Ninh Bình] chiếu theo đường đê cũ, liệu lượng tùy tiện bắt dân các hộ sửa đắp, sẽ miễn cho tiền thuế điệu. Lại giảm bớt thuế tô cho ruộng tư: hạng ruộng nhất đẳng và nhị đẳng nộp theo ngạch cũ, còn hạng tam đẳng được giảm nhẹ, chỉ thu mỗi mẫu một tiền. Thanh Hoa và Nghệ An không có đường đê cũng miễn cho tiền thuế điệu, hạng chính đinh được giảm bớt một nửa, hạng hoàng đinh và hạng lão thì nhất luật miễn trừ. Trịnh Giang y theo, từ đây, phép thuế tô, dung, điệu đặt ra từ năm Bảo Thái mới thay đổi lại.
Tháng 4 [17/5-14/6/1730] Chúa Trịnh Giang tự tiến phong là Nguyên soái thống quốc chính, Uy nam vương. Sau khi đã tiến phong, Giang tôn bà nội Trương Thị làm Thái tôn thái phi, mẹ đẻ Vũ Thị làm Thái phi.
Nước to, vỡ đê Mạn Trù [huyện Khoái Châu, Hưng Yên]. Về việc sửa đắp đê, trước đây ủy thác cho viên quan ở trấn, công việc làm phần nhiều không chu đáo, nên từ năm Bảo Thái thứ 7 [1726], triều đình tự xuất tiền công trong kho để làm, và giao cho quan võ và Nội giám chia nhau đôn đốc công việc sửa đắp. Nhưng bọn này đều làm những việc đục khoét, mưu toan lấy số tiền công còn thừa lại, thành ra công việc làm không được vững bền chắc chắn. Năm nay nước sông Nhị tràn ngập, đê ở châu Mạn Trù bị vỡ, lúa mạ hoa màu thuộc 8, 9 huyện đều bị tai hại.
Tháng 6 [15/7-13/8/1730] bổ dụng Nguyễn Minh Châu làm Trấn thủ Nghệ An, Đặng Đình Lân Trấn thủ Sơn Nam. Trịnh Giang là người hay nghi kỵ, nghĩ rằng các viên Trấn thủ trị nhậm ở trấn lâu ngày, được lòng quân, dân, e sinh ra việc biến động. Bèn đổi Nguyễn Minh Châu hiện trấn thủ Kinh Bắc, đi trấn thủ Nghệ An, Đại tư mã Đặng Đình Lân đi trấn thủ Sơn Nam. Những viên Trấn thủ ở các xứ khác, phần nhiều bị thay đổi.
Tháng 10 [10/11-9/12/1730], Trịnh Giang xây dựng và sửa chữa hai ngôi chùa Quỳnh Lâm và Sùng Nghiêm. Chùa Quỳnh Lâm tọa lạc dưới chân núi Quỳnh Lâm thuộc xã Hà Lôi, huyện Đông Triều [tỉnh Quảng Ninh], do thầy Minh Không thời nhà Lý dựng lên, ở đây có viện Quỳnh Lâm, am Bích Động, chùa Sùng Nghiêm ở xã Nam Giản, huyện Chí Linh [Hải Dương]. Việc sửa chữa xây dựng hai ngôi chùa này, rất phiền phức nặng nề, phải dỡ lấy gỗ ở phủ đệ Cổ Bi [huyện Gia Lâm, Bắc Ninh] thả xuống sông chở xuôi, để cung cấp vào việc xây dựng. Lại hạ lệnh cho dân ba huyện Đông Triều, Thủy Đường và Chí Linh phải gánh vác công việc này, sẽ miễn cho một năm số tiền góp về đê đường. Về sau, lại bắt dân khơi đường sông để việc vận tải được lưu thông, dân phải kéo gỗ, xe đá, thường có hàng vạn người làm, ngày đêm không được nghỉ ngơi.
Tháng Giêng năm Tân Hợi, Vĩnh Khánh thứ 3 [7/2-7/3/1731], tức năm Ung Chính thứ 9 nhà Thanh, Thái thượng hoàng mất, tôn miếu hiệu Dụ Tông. Từ khi rời ngôi Vua, lui ra ở điện Kiền Thọ, Thượng hoàng thường uất ức không vui, đến nay mất. Thượng hoàng ở ngôi 25 năm, nhường ngôi 2 năm, hưởng thọ 52 tuổi, làm lễ an táng ở lăng Cổ Đô, thuộc xã Cổ Đô, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa.
Tháng 2 [8/3-6/4/1731], triệt bỏ các trường xưởng mới đặt ở Thanh Hóa. Lấy cớ rằng Thanh Hóa là đất sáng lập cơ nghiệp đế vương, không nên đào xẻ núi đồi, e hại long mạch. Vì thế, phàm trường xưởng mới đặt đều triệt bỏ hết.
Ngày mồng một tháng 12 [29/12/1731], định lại phép thi võ Bác cử. Khoa thi trước đó, kỳ đầu hỏi về nghĩa sách võ kinh để thải bớt người kém, khiến người có võ nghệ và sức mạnh có khi bị bỏ rơi. Bèn định lại phép thi võ:
– Kỳ đệ nhất, thi giương cung, múa siêu đao, đều chia ra ba bậc.
– Kỳ đệ nhị, thi múa siêu đao, múa kiếm, cưỡi ngựa múa đâu mâu, và thi bắn cung, môn bắn cung lại chia ra cưỡi ngựa bắn tên và chạy bộ bắn tên. Về cưỡi ngựa bắn tên, thì dựng ba cái đích, mỗi cái đích cách nhau một trăm bộ, người ứng thí cưỡi ngựa buông cương cho ngựa phi, bắn ba phát tên, người nào được hai mũi tên trúng đích là hạng ưu, được một mũi tên trúng đích là hạng thứ. Thể lệ chạy bộ bắn tên đại lược cũng giống như thế.
– Kỳ đệ tam thi một bài văn sách về võ kinh.
Về phía nhà Thanh, vào tháng 7 ra lệnh kiểm soát gắt tại các đồn sở tại quan ải nơi biên giới, lùng bắt dân Trung Quốc sang An Nam khai mỏ:
“Ngày 27 Mậu Tý tháng 7 năm Ung Chính thứ 9 [29/8/1731]. Lại dụ nội các:
‘Ðạo Quảng Tây thông với Giao Chỉ, nghe nói tại địa phương này có dân ngu không biết gì, bỏ cả nghiệp nhà, ngầm đến Giao Chỉ khai mỏ, lại có bọn gian ngầm trốn sang đất khác, không còn tông tích để mà truy tầm, khiến cho sự cấm đoán không thi hành được, mối tệ không được cải tiến. Nay ra lệnh Tuần phủ Quảng Tây, Ðề đốc, Trấn thủ dốc tâm bàn bạc trù hoạch điều binh, đặt thêm tấn sở tại các cửa ải và các nơi núi non hoang vu có đường qua lại, cùng ra lệnh quan quân gia tăng tuần tra. Nếu có người xuất cảnh bất hợp pháp, hãy áp giải về nguyên quán, chiếu luật trị tội, khiến cho dân ngu không phải lưu ly nơi đất lạ, mà bọn gian phi thì không thể trốn xa thoát lưới.” (Thanh Thực Lục, Thế Tông Thực Lục quyển 108, trang 36-37).
Tại miền Nam, vào tháng 4 [6/5-4/6/1731] người Ai Lao là Sá Tốt đem quân Chân Lạp vào cướp Gia Định. Chúa Nguyễn bèn sai Thống suất Trương Phước Vĩnh điều khiển các đạo binh đi đánh. Bấy giờ các dinh ở Gia Định đều đặt Thủ tướng, Chúa cho rằng việc quân ở nơi biên khổn cần phải có người thống nhiếp, nên sai Phước Vĩnh làm việc điều khiển, quan binh các dinh trấn đều thuộc về cả. Lại đặt riêng một nha lỵ ở phía nam dinh Phiên Trấn gọi là dinh Điều khiển, chức Điều khiển bắt đầu đặt từ đấy.
Bấy giờ Cai cơ Đạt Thành đánh nhau với giặc ở sông Lật Giang [sông Vàm Cỏ Đông][4] không thắng, bị chết.
Thống binh Trần Đại Định (con Trần Thượng Xuyên) suất lĩnh các thuộc tướng Long Môn đi đánh giặc ở Phù Viên [Vườn trầu, Gia Định]. Giám quân Nguyễn Cửu Triêm lại do sông Lật Giang đánh nhau với giặc. Giặc lùi chạy về Cù Ao [Vũng Cù, Long An]. Quan Điều khiển Trương Phước Vĩnh cùng Trần Đại Định và Nguyễn Cửu Triêm chia quân làm ba đường để tiến. Quân giặc thua to, chạy trốn. Đại Định tiến giữ Cầu Nam. Nặc Tha nước Chân Lạp (con Nặc Yêm ) sợ chạy đến Sơn Bô (tên phủ ở Chân Lạp), đưa thư cầu hoãn binh, và xin bắt giặc để chuộc tội. Gặp lúc mưa lụt, Phước Vĩnh nhân thế thuận cho, rút quân các đạo về Gia Định.
Tháng 6 [4/7-2/8/1731], đặt 11 thuyền Ô Tất ở Gia Định. Đất ven rừng ở Gia Định sản xuất nhiều sơn, bèn mộ 500 quân đặt làm 11 thuyền, qui định mỗi tên quân mỗi năm phải nộp 16 cân sơn. Những người xiêu bạt mới về và những người mới xét vào sổ đinh thì nộp một nữa, tổng cộng mỗi năm thu sơn được 6.528 cân.
Tháng Giêng năm Nhâm Tý, Vĩnh Khánh thứ 4 [27/1-25/2/1732],[5] ra lệnh mua và tìm kiếm sách cũ còn sót lại. Phàm sách vở cổ, thơ văn cổ cùng văn bài về việc thi cử của nước ta, không câu nệ văn chương nông cạn, quê mùa, đều được phép đem dâng nộp, sẽ liệu giá mà ban thưởng.
Tháng 3 [26/3-24/4/1732], Chúa Trịnh Giang tự ý sai chế lễ nhạc dùng trong phủ đường, nghi vệ không thua triều đình Vua. Sau khi hoàn tất, ngày chúa Trịnh ra coi chầu, phường nhạc sắp hàng ở phủ đường, cửa phủ đường bên tả và bên hữu đã mở, thì bắt đầu cử nhạc, các quan văn quan võ lạy xong, lúc ấy tiếng nhạc sẽ ngừng. Phàm khi chúa đi tuần du hoặc xuất phát quân lính, thì bắn ba tiếng súng, buổi trưa lúc đi nghĩ, ban đêm lúc đi nằm cũng theo quy tắc như thế, khi ra đi thì có cờ lệnh, phường nhạc chia nhau đi trước dẫn đường.
Tháng 4 [25/4-23/5/1732], triều đình sai sứ sang nhà Thanh. Sứ bộ có Chánh sứ Phạm Công Dong, phó sứ Ngô Đình Thạc sang báo việc Dụ Tông mất và xin nhà Thanh phong tước cho vua mới lên ngôi.
Thanh Thực Lục xác nhận sứ bộ đến Bắc Kinh vào cuối năm sau, với sứ mệnh cáo tang, xin phong và triều cống:
“Ngày 18 Ất Mùi tháng 11 năm Ung Chính thứ 11 [23/12/1733]. Lê Duy Hỗ[6] Người nối dõi Quốc vương An Nam sai Bồi thần Phạm Công Dong cáo tang cố Quốc vương Lê Duy Ðào cùng xin phong tước và cống sản vật địa phương.” (Thanh Thực Lục, Thế Tông Thực Lục, quyển 137, trang 5-6).
Tháng 8 [19/9-18/10/1732], Trịnh Giang truất Thái hậu Trịnh Thị làm Quận quân, Thái hậu tên là Ngọc Trang, mẹ đẻ của nhà Vua. Trịnh Giang truất nhà vua làm Hôn Đức công, lập Duy Tường, con trưởng của Dụ Tông lên ngôi vua, đổi niên hiệu, đại xá trong nước.
Ngày Bính Tý [10/10/1732] làm lễ cáo Thái Miếu, ngày Canh Thìn [14/10/1732] lên ngôi tức Vua Thuần Tông. Đổi niên hiệu là Long Đức, đại xá cho trong nước, tha những thuế bỏ thiếu, tha tiền nộp để chuộc tội còn bỏ thiếu chồng chất, viên quan nào vì lầm lỡ mà bị truất bãi đã lâu, đều cho xét lại rồi bổ dụng.
Tháng 11 [17/12/1732-15/1/1733], Trịnh Giang giết Nguyễn Công Hãng. Công Hãng có tài biện bác, giữ công việc trong phủ chúa, quả quyết thi thố tài năng của mình, rất được Trịnh Cương tin yêu ủy nhiệm, nhưng bị nhiều người oán nghét. Từ lúc Giang làm Thế tử, đã giận Công Hãng không muốn lập mình, người ở bên cạnh Giang lại thêu dệt thêm những điều sở đoản của Công Hãng. Giang bèn cho Công Hãng ra giữ chức Thừa chính sứ Tuyên Quang, sau đó bắt ép phải tự tử.
Tại miền Nam, vào tháng Giêng [27/1-25/2/1732], giặc Lào lại cấu kết với quân Chân Lạp cướp phá Cầu Nam. Trương Vĩnh Phước tiến quân đánh, và trách Nặc Tha dung túng quân giặc. Nặc Tha sợ Phước Vĩnh đánh, đem nhiều của cải đút lót. Phước Vĩnh bèn lưu Trần Đại Định đóng quân bắt giặc, còn mình thì đem quân về.
Tháng 4 [25/4-23/5/1732], Thống binh Trần Đại Định tiến quân đến Lô Việt. Thế giặc cùng quẫn. Trước kia khi giặc Lào chưa bình xong Chúa xuống thư quở trách, Trương Phước Vĩnh gởi mật biểu đem việc đóng quân không tiến đổ tội cho Đại Định. Kịp Đại Định đem quân về biết việc ấy, muốn kêu với triều đình, bèn nhân đêm vượt biển đến Bút Sơn (thuộc hải phận Quảng Ngãi). Người em họ là Thạnh cho rằng Phước Vĩnh là con nhà thế thần, đời đời làm quan to, không thể tranh phải trái được, khuyên bỏ đi. Đại Định nói rằng :
“Một nhà cha con ta chịu ơn nhà nước đã dày, nay vì cớ Thống soái che giấu sự thật mà ta tự nhiên bỏ đi, chịu lấy tiếng xấu, chẳng những là làm tôi bất trung, mà làm con cũng bất hiếu”.
Thạnh cố can, xua thuyền nhằm thẳng ra biển đông, Đại Định tuốt gươm chém Thạnh, rồi quay thuyền vào cửa biển Đà Nẵng làm biểu trần tình, do dinh thần Quảng Nam tâu lên. Bấy giờ các quan bàn muốn trị tội, nhưng chúa không nỡ, sai giam Đại Định ở Quảng Nam và sai quan đi Gia Định xét hỏi. Phước Vĩnh thêu dệt buộc tội cho Đại Định, chỉ một mình Nguyễn Cửu Triêm cố cãi là oan. Bản án dâng lên, Đại Định đã bị bệnh chết ở trong ngục, Chúa rất thương, truy tặng Đô đốc đồng tri, thụy là Tương Mẫn, Phước Vĩnh bị tội vu cáo, giáng làm Cai đội. Bèn dùng Cai cơ Nguyễn Hữu Doãn thay Trương Phước Vĩnh giữ chức Điều khiển Gia Định. Lấy Nguyễn Cửu Triêm thống dinh Trấn Biên. Cửu Triêm ở trong quân, người Chân Lạp sợ như cọp, Chúa nghe tiếng, nên ban mệnh ấy.
Chúa cho rằng Gia Định địa thế rộng rãi, sai quan tại biên giới chia đất đặt châu Định Viễn sau này là phủ Định Viễn thuộc tỉnh Vĩnh Long và dựng dinh Long Hồ, tức tỉnh Vĩnh Long ngày nay.
Tháng 3 năm Quí Sửu, Long Đức thứ 2 [14/4-13/5/1733], tức năm Ung Chính thứ 11 nhà Thanh, tha hai tháng thuế quan ải và bến sông cho Thanh Hóa. Lúc bấy giờ Thanh Hóa giá gạo lên cao, Trấn thủ Nguyễn Thọ Trường làm tờ khải xin cho người vận chở thóc gạo được miễn hai tháng thuế, để việc buôn bán lưu thông, đồ dùng của dân được tiện lợi. Trịnh Giang y theo.
Tháng 8 [8/9-7/10/1733], bãi bỏ chức quan Hà đạo. Trước kia đặt chức quan Hà Đạo, với nhiệm vụ đi khám xét đất bãi bồi các loại, để tăng hoặc giảm thuế tô. Nay lấy cớ rằng đất bãi ở sông khi bồi khi lở còn phải một thời gian lâu, mà người giữ việc khám xét hàng năm bắt bớ đốc thúc, lại thêm nhũng nhiễu dân, bèn bàn bỏ bớt chức này. Phàm đất bãi ở hạt nào, giao cho viên phủ, viên huyện hạt ấy đích thân đi khám xét, rồi tâu sự thật lên phủ Chúa.
Tại miền Nam, vào tháng Giêng [14/2-15/3/1733], cho đặt đồng hồ tại các dinh và các đồn tấn dọc bờ biển. Trước đây vào thời đầu nhà Nguyễn, đã phỏng theo cách thức phương Tây để làm đồng hồ, gọi là Tự minh chung [Chuông tự kêu]. Trông như cái Long đình thờ Phật, hình vuông, bốn mặt có cửa, trên có nóc, dưới có chân, cao chừng một thước, mặt trước là một tấm đồng, ở giữa làm vòng tròn khắc thành 12 giờ . Giờ Ngọ [giữa trưa] ở trên, giờ Tý [nửa đêm] ở dưới, giờ Mão ở phía đông, giờ Dậu ở phía tây.
Tháng Giêng năm Giáp Dần, Long Đức thứ 3 [4/2-4/3/1734], tức năm Ung Chính thứ 12 nhà Thanh, ban phát Ngũ Kinh Đại Toàn cho Học quan các xứ. Trước đây, sai quan hiệu đính kiểm duyệt năm kinh [Thi, Thư, Dịch, Lễ và Xuân Thu] theo văn bản của Trung Quốc, rồi khắc thành sách, nay sách đã in xong, ban bố cho trong nước, để theo đấy mà dạy bảo học trò, cấm mua sách của Trung Quốc.
Tháng 5 [2/6-30/6/1734], hạ lệnh cấm dùng đồ vật hoa mĩ. Lấy cớ rằng tập tục dân gian, mỗi ngày đi dần đến xa xỉ, bèn hạ lệnh: quan viên, quân lính và dân thứ, đồ đạc thường dùng không được chạm khắc hình chữ, trang sức hoa mĩ, người thợ không được đua nhau chế tạo thứ lạ, thứ khéo.
Tháng 10 [27/10-24/11/1734], Sứ thần nhà Thanh đến nước ta, có Hàn lâm viện thị giảng học sĩ Xuân Sơn, và Binh khoa cấp sự trung Lý Học Dụ, với sứ mệnh sách phong Vua Lê Thuần Tông và ban lễ tế cho Vua Dụ Tông.
Sứ thần khởi hành tại Bắc Kinh vào tháng 2, Vua Ung Chính sai mang sắc mệnh phong cho Vua Lê Thuần Tông, nguyên văn như sau:
“Ngày 19 Ất Sửu tháng 2 năm Ung Chính thứ 12 [23/3/1734]. Sai Hàn lâm viện thị độc Xuân Sơn, Binh khoa cấp sự trung Lý Học Dụ đến tế cố Quốc vương An Nam Lê Duy Ðào, cùng sắc phong cho người nối dõi của cố Quốc vương là Lê Duy Hỗ làm Quốc vương An Nam. Sắc phong như sau:
‘Vương triều ban hành giáo hóa, vạn bang phên dậu trung thành, hải vũ chung một văn phong, 6 cõi núi sông đầy tràn phúc tộ. Xa thư thống nhất, nếp cũ tô bồi, đất nước ngàn năm, ơn mới tràn khắp.
Ngươi Lê Duy Hỗ thừa tự Quốc vương An Nam, vốn được ban cho giữ phương nam, luôn luôn hướng về cung đình cõi bắc. Phiên bình che chở, tuân theo thanh giáo trên ban, phụng tước Quốc vương, dốc lòng trung trinh đền đáp. Nay ngươi vừa nối chức, xin mệnh tại triều, kính cẩn trị an giữ chức, đức tốt sáng soi, được sủng hạnh chốn xa xôi, khen lao vinh hiển. Nay phong làm Quốc vương An Nam, ngươi hãy kính cẩn nhận tước phong, ôm lòng nhân mộ nghĩa, dùi mài tu thân, để mở đường tương lai, vẽ vang tiên tổ, đời đời hưởng ân trạch. Khâm tai! Trẫm mệnh không thay thế.” ( Thanh Thực Lục, Thế Tông Thực Lục quyển 140, trang 8-9)
Tiếp đến vào tháng chạp, Vua Thanh lại ra lệnh sửa đổi cửa ải tại phía đông bắc tỉnh Lạng Sơn, và trả lại vùng đất Cừ Na do bọn Thổ mục tại biên giới Quảng Tây lấn chiếm:
“Ngày 20 Tân Dậu tháng 12 năm Ung Chính thứ 12 [ 13/1/1735]. Bộ hình bàn rồi tâu lên:
‘Bọn Thổ mục động Thiên Long[7] thuộc phủ Nam Ninh tỉnh Quảng Tây vượt chiếm đất An Nam, xây cất doanh trại và phòng ốc. Cần phân biệt trị tội bọn Thổ mục[8] Vương Nguyên Quang, Thổ luyện Liêu Quảng, Thổ quan Hoàng Chấn Trung.’
Ðược chiếu chỉ ban:
‘Y theo lời bàn. Trước đây lập ải tại Cừ Na, do viên gian dân Liêu Quảng xúi Thổ quan Thiên Long là Hoàng Chấn Trung tấu xằng, nên những viên quan quân phụ trách khám biên giới chỉ biết nghe lời Thổ quan rồi lập quan ải, thiết phòng ốc. Nay qua viên Tổng đốc và Tuần phủ tra rõ địa phương Cừ Na, thật không phải thuộc đất nội địa động Thiên Long, nên đã dời ải Niệm Thê vào thôn Bác Mã, dời ải Bản Mông vào thôn Bạch Tâm, lấy con sông nhỏ từ Thập Vạn Ðại Sơn[9] làm biên giới trong ngoài và đưa bọn Thổ quan phân biệt trị tội.
Nay mệnh Tổng đốc Y Kế Thiện, Tuần phủ Kim CộngTương khám rõ địa giới, lập lại cửa ải, giao đất Cừ Na cho An Nam quản lý, viết văn thư để trình bày duyên do cho viên Quốc vương hiểu rõ, lại ra lệnh quan quân bất ngờ tuần tra, không để cho dân gian tại nội địa xuất cảnh quấy nhiễu, để đáp ứng với tấm lòng mềm dẻo với người phương xa của Trẫm.” ( Thế Tông Thực Lục quyển 150, trang 12-15).
Tại miền Nam vào tháng 8 [29/8-26/9/1734], Chúa ban biển ngạch cho chùa Hộ Quốc. Chùa này ở phía nam sông Phước Giang [sông Đồng Nai] thuộc tỉnh Biên Hòa, do thống suất Nguyễn Cửu Vân dựng khi đánh Chân Lạp. Chúa nhớ công của Vân, mới đặt tên chùa ấy là chùa Hộ Quốc và viết biển ngạch ban cho, nên bấy giờ gọi là chùa Sắc Tứ.
Tháng Giêng năm Ất Mão, Long Đức thứ 4 [24/1-22/2/1735],[10] Sai Nguyễn Hiệu đi khám dân lưu tán ở Sơn Nam [các tỉnh Nam Định, Thái Bình]. Sơn Nam từ khi trải qua nạn thủy tai, nhân dân nhiều người phiêu tán, bèn sai Nguyễn Hiệu đi khám số dân đinh từng nhà, tùy theo số dân nhiều hay ít, giảm bớt số hộ khẩu.
Tháng 4 [22/5-20/6/1735], Vua mất. Dâng tôn hiệu là Giản hoàng đế, miếu hiệu Thuần Tông. Nhà vua ở ngôi 4 năm hưởng dương 37 tuổi, táng ở lăng Bình Ngô, tức thôn Bình Ngô, huyện Thụy Nguyên, tỉnh Thanh Hoá.
[1] Từ tháng 4 trở về sau là năm Vĩnh Khánh thứ nhất đời Đế Duy Phường, tương ứng năm Ung Chính thứ 7 nhà Thanh.
[2] Sông Nghĩa Trụ: Ở địa phận các xã Lê Xá, Phú Thị, Nông Vụ và Cổ Bi thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Nước ở ruộng bốn xã trên đổ ra, khi chảy đến địa phận xã Xuân Cầu, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, thì hợp làm một dòng, rồi chia thành ba chi: một chi chảy qua địa giới huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương làm thành sông Đạo Khê chảy suốt ra cửa biển Thái Bình, một chi từ sông Đạo Khê chảy qua địa phận huyện Cẩm Giàng làm thành sông Vân Đậu chảy vào sông Hàm Giang rồi đổ vào biển, một chi về phía nam chảy vào địa giới huyện Đông An làm thành con sông nhỏ Đông Xá hợp vào với sông Nhị.
—————–
[3] Ngự thư: Bức thư chính tay Vua viết ra.
[4] Sông Lật Giang: còn gọi là sông Lứt, phát nguyên từ rừng Quang Hóa, Tây Ninh, chảy qua Bến Lức, Long An, còn gọi là sông Cửu An.
[5] Từ tháng 8 trở về sau, thuộc niên hiệu Long Đức thứ nhất triều Lê Thuần Tông, tương ứng năm Ung Chính thứ 10 nhà Thanh.
[6] Lê Duy Hỗ: tức Vua Lê Thuần Tông, tên húy dùng trong nước là Lê Duy Tường.
[7] Thiên Long: tên động, thời Thanh thuộc phủ Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, hiện nay nằm trong lãnh thổ huyện Ninh Minh.
[8] Thổ luyện: huấn luyện viên người bản xứ, Thổ mục: người bản xứ giúp việc cho quan.
[9] Thập Vạn Ðại Sơn: rặng núi tại huyện Thượng Tư, tỉnh Quảng Tây.
[10] Từ tháng 5 trở về sau là năm Vĩnh Hựu thứ nhất, triều Ý Tông, tức năm Ung Chính thứ 13 nhà Thanh.