Đã đến lúc đồng minh của Mỹ tự cứu lấy mình

Nguồn: Malcolm Turnbull, “America’s Allies Must Save Themselves”, Foreign Affairs, 06/06/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Kể từ khi trở lại nhiệm sở, Tổng thống Donald Trump đã tấn công trật tự thế giới do Mỹ tạo ra sau Thế chiến II. Ông đã thách thức chủ quyền của các đồng minh và đối tác bằng cách đe dọa mua Greenland, sáp nhập Canada và chiếm Kênh đào Panama. Cuộc chiến thương mại toàn cầu của ông được thiết kế để mang lại lợi ích cho Mỹ bất chấp tổn hại đến tất cả các đối tác thương mại. Ông đã rút Mỹ khỏi hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Thông qua việc giải thể Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ, chính quyền Trump đã từ bỏ các cam kết lưỡng đảng lâu đời đối với phát triển quốc tế. Và cách ông hành xử với Ukraine – nỗ lực của ông nhằm dồn người Ukraine vào một thỏa thuận hòa bình thay vì sử dụng sức mạnh của Mỹ để buộc Nga phải ngồi vào bàn đàm phán – đã làm bẽ mặt bên yếu hơn và bị hại, đồng thời lấy lòng kẻ xâm lược.

Trump tin rằng sức mạnh tạo nên lẽ phải. Như ông đã đăng vào tháng 4 trên Truth Social, “QUY TẮC VÀNG CỦA ĐÀM PHÁN VÀ THÀNH CÔNG: KẺ NÀO CÓ VÀNG THÌ KẺ ĐÓ ĐẶT RA LUẬT LỆ”.

Trật tự thế giới và các thể chế mà Mỹ tạo ra sau Thế chiến II đều được thiết kế để chống lại logic đó, và để đảm bảo rằng kẻ mạnh không thể đơn giản làm những gì họ có thể và buộc kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu. Nhưng Trump không có thời gian cho những tư tưởng cao siêu như vậy. Thay vào đó, ông đã chứng minh quan điểm hoài nghi rằng Mỹ chưa bao giờ là một cường quốc vị tha và lý tưởng như những gì họ tuyên bố.

Đối với những người vẫn tin vào một nước Mỹ có nguyên tắc và hào phóng, đây là một khoảnh khắc đau khổ của sự bất hòa nhận thức. Thực tế dưới chính quyền Trump – sự coi thường luật pháp cả trong và ngoài nước, sự bắt nạt, sự hủy bỏ các thỏa thuận và hiệp ước, các mối đe dọa chống lại các đồng minh, và lấy lòng những kẻ chuyên quyền – là rõ ràng. Nhưng nó vẫn có vẻ khó tin. Một số nhà quan sát tìm kiếm một lời giải thích tích cực hơn. Có lẽ, họ hình dung, Trump đang bày ra một ván cờ thâm sâu và những hành động thái quá của ông chỉ là một phần của một kế hoạch tổng thể xảo quyệt. Những người khác bám víu vào hy vọng rằng điều gì đó sẽ thay đổi diễn biến của các sự kiện, một tình tiết bất ngờ để giữ mọi thứ đi đúng hướng trước khi kế hoạch đi chệch hướng.

Nhưng hy vọng là một niềm an ủi nguy hiểm trong những thời điểm như thế này. Trump là điều bình thường mới ở Washington. Ít nhất cho đến cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo, chẳng có dấu hiệu nào cho thấy tình thế sẽ đảo ngược.

Điều này không có nghĩa là các đồng minh của Mỹ nên đầu hàng trước sự hăm dọa của Trump. Cùng nhau, họ có thể tạo ra ảnh hưởng đáng kể và đối phó với sự hỗn loạn do Washington gây ra. Những quốc gia chia sẻ các giá trị mà Mỹ từng đại diện, nhưng hiện tại không còn, nên hợp sức lại để bảo vệ những gì hoạt động tốt nhất trong trật tự mà Trump đang có ý định chôn vùi. Như Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã nói vào tuần trước, các đồng minh của Mỹ nên xây dựng một liên minh các quốc gia “sẽ không bị bắt nạt”.

Tự lực cánh sinh

Trong kỷ nguyên “Nước Mỹ trên hết”, Mỹ không còn là, và không tự nhận mình là, một đối tác an ninh đáng tin cậy như trước đây. Các đồng minh trên khắp thế giới đã nhận ra rằng họ phải nỗ lực nhiều hơn để tự vệ. Họ phải mua sắm các hệ thống vũ khí tiên tiến hơn, dự trữ đạn dược và thiết bị nhiều hơn, và tuyển dụng thêm nhân sự. Đồng thời, họ phải tăng cường “quyền tự chủ tối cao” của mình, đặc biệt là khả năng tác chiến mà không cần sự đồng thuận hoặc hợp tác của Mỹ. Họ cũng phải phát triển và củng cố các liên minh với các đối tác cùng chí hướng khác ngoài Mỹ.

Những động thái như vậy không phải là bác bỏ Mỹ, mà đúng hơn là hành động theo đúng những gì chính quyền Trump đang thúc đẩy các đồng minh làm. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 4, Phó Tổng thống JD Vance đã ca ngợi nhà lãnh đạo Pháp Charles de Gaulle, người mà bất chấp sự phản đối từ Washington vào những năm 1960, đã đảm bảo rằng Pháp, không giống như Anh, vẫn giữ được chủ quyền hoàn toàn đối với tất cả các khả năng quân sự của mình, bao gồm cả kho vũ khí hạt nhân. Như Vance đã nói, de Gaulle hiểu “rằng đó không phục vụ cho lợi ích của châu Âu, cũng không phải vì lợi ích của Mỹ, nếu châu Âu mãi mãi là một chư hầu an ninh của Mỹ”.

Thông điệp từ Washington đã thay đổi rõ rệt. Trump không phải là tổng thống đầu tiên nói rằng các đồng minh nên đóng góp lớn hơn cho phòng thủ chung. Nhưng đối với nhiều đồng minh, ông dường như đang nói rằng họ nên chi tiêu nhiều hơn vì họ có thể sẽ phải tự lo liệu.

Hãy xem xét cách Trump đối xử với Ukraine. Trong những tháng đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump dường như đã thực sự đổi phe trong cuộc chiến ở Ukraine, ủng hộ Nga và ép buộc Ukraine chấp nhận một nền hòa bình theo các điều khoản mà Tổng thống Nga Vladimir Putin đặt ra. Thật không may cho Trump, ba tháng xoa dịu đã không chấm dứt chiến tranh. Ông có thể cuối cùng sẽ đối đầu với Putin, hoặc ông có thể đơn giản là bỏ mặc Ukraine với số phận của nước này.

Ngoài Ukraine, các nước châu Âu phải đối mặt với mối đe dọa cấp bách nhất từ Nga. Các thành viên châu Âu của NATO có năng lực kinh tế để sánh bằng và vượt qua Nga nếu họ chọn làm như vậy. Như Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk gần đây đã hỏi, “Tại sao 500 triệu người châu Âu cần 330 triệu người Mỹ để bảo vệ họ chống lại 140 triệu người Nga?”

NATO và tất cả các đồng minh của Mỹ, bao gồm Úc, đều nhận ra sự cần thiết phải chi tiêu nhiều hơn. Nhưng Washington và các cường quốc đồng minh có quan điểm khác nhau về cách chi tiêu khoản tiền bổ sung đó. Mỹ đương nhiên muốn đồng minh mua thêm vũ khí Mỹ. Nhưng các đồng minh lo sợ rằng mặc dù việc mua thêm thiết bị và đạn dược của Mỹ có thể làm hài lòng Trump, nhưng nó sẽ không mang lại sự độc lập cao hơn. Thật vậy, một cuộc mua sắm ồ ạt các hệ thống vũ khí của Mỹ có thể chỉ dẫn đến việc người mua trở nên phụ thuộc hơn vào Mỹ.

Giải pháp lâu dài cho các đồng minh của Mỹ là sở hữu khả năng răn đe kẻ xâm lược bằng năng lực có sự tự chủ — lý tưởng nhất là được tự sản xuất trong nước, nhưng chắc chắn phải là khả năng triển khai và vận hành mà không cần sự đồng ý của Mỹ. Hiện tại, điều đó là không thể. Ví dụ, máy bay F-35 do Mỹ cung cấp phụ thuộc vào phần mềm và phụ tùng của Mỹ đến mức khó có thể thấy chúng có thể được sử dụng, hoặc sử dụng lâu dài, mà không có sự đồng ý của Washington.

Kiểu phụ thuộc này, phổ biến trong hầu hết các hệ thống vũ khí hiện đại, thường gây khó chịu cho các đồng minh của Mỹ nhưng không được coi là một vấn đề lớn. Các đồng minh NATO có thể tin tưởng rằng họ sẽ không bao giờ chiến đấu một mình, vì vậy sự phụ thuộc vào một nước Mỹ thờ ơ chỉ là một mối quan tâm mang tính lý thuyết. Nhưng ngày nay, với việc Nhà Trắng yêu cầu các đồng minh của Mỹ có thể tự vệ, hoàn cảnh rất khác biệt. Không có gì ngạc nhiên khi kế hoạch mua sắm quốc phòng trị giá 150 tỷ euro mới được công bố của EU phần lớn loại trừ các công ty Mỹ. Đồng thời, Bồ Đào Nha đã thông báo rằng họ không còn có kế hoạch mua F-35, và Canada đang đánh giá lại kế hoạch mua 88 chiếc F-35. Thử thách của châu Âu không chỉ là tìm vốn để tài trợ cho việc tái vũ trang mà còn phải vượt qua những cạnh tranh quốc gia để thống nhất các đại diện tiêu chuẩn cho ngành công nghiệp quốc phòng, giống như cách Pháp và Đức đã hợp tác để tạo ra Airbus vào năm 1970. Một ví dụ truyền cảm hứng khác cho châu Âu (và các đồng minh khác của Mỹ) có thể được tìm thấy ở Ukraine, nơi ngành công nghiệp quốc phòng địa phương đã sản xuất hết khả năng đột phá, đổi mới và ít tốn kém hơn này đến khả năng khác – như đã được chứng minh bằng các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái đáng kinh ngạc mà lực lượng Ukraine đã tiến hành vào đầu tuần này vào các căn cứ không quân của Nga.

Mục tiêu tự chủ có chủ quyền

Ở châu Âu, các đồng minh của Mỹ có vị trí địa lý gần nhau và có mối quan hệ chiến lược và kinh tế mạnh mẽ. Tình hình ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương lại rất khác. Một mặt, Trung Quốc mạnh hơn nhiều so với các nước láng giềng châu Á chênh lệch hơn so với Nga và các nước châu Âu. Mặt khác, mặc dù Trump đã khiến các nước châu Âu lo ngại rằng họ có thể phải tự lo liệu, nhưng ông vẫn chưa cho thấy rằng Mỹ sẽ từ bỏ các đồng minh ở châu Á.

Điểm nóng rõ ràng là Đài Loan, nơi các thông điệp từ chính quyền Trump hoàn toàn trái ngược. Bản thân Trump đã nói rằng Đài Loan khó phòng thủ và đã phàn nàn về ngành công nghiệp sản xuất chất bán dẫn của hòn đảo, tuyên bố rằng hòn đảo này “đã đánh cắp ngành chip” từ Mỹ và nên trả tiền cho sự bảo vệ của Mỹ. Nhưng khi phát biểu gần đây tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Pete Hegseth cho biết Trump đã nói rõ rằng “Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ không dám xâm lược Đài Loan dưới thời ông” và rằng Mỹ sẽ nỗ lực để khiến chi phí của một cuộc xâm lược là quá cao đối với Trung Quốc, đảm bảo rằng hòa bình ở eo biển Đài Loan là lựa chọn duy nhất.

Sự tự tin đó bị phản bác bởi các sự kiện trên thực tế. Các cuộc tập trận của Trung Quốc quanh Đài Loan ngày càng giống như các buổi diễn tập cho một cuộc xâm lược. Bản thân Hegseth đã thừa nhận trong bài phát biểu của mình rằng một cuộc tấn công có thể sắp xảy ra. Chính trị Đài Loan không ổn định, không có sự đồng thuận về sự cần thiết phải tăng chi tiêu quốc phòng, và có một loạt các biện pháp cưỡng chế ngoài xung đột quân sự có thể cho phép nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình giành chiến thắng ở Đài Loan mà không cần nổ súng.

Bất chấp những lời lẽ cứng rắn của Hegseth ở Singapore, Đài Loan gần gũi và quan trọng hơn nhiều đối với Bắc Kinh so với Washington. Nếu Ukraine không phải là cuộc chiến của Trump (như ông thường nhấn mạnh), ông có thể sẽ không mạo hiểm chiến tranh với Trung Quốc vì Đài Loan – ngay cả khi nó chỉ là chiến tranh thông thường, cũng sẽ khiến phần lớn hải quân Mỹ và Trung Quốc tổn thất nặng nề. Với năng lực đóng tàu gấp hơn 200 lần Mỹ, Trung Quốc có thể bù đắp những tổn thất của mình rất lâu trước khi Mỹ có thể làm được điều đó. Việc Trung Quốc tiếp quản Đài Loan sẽ khiến các đồng minh của Mỹ trong khu vực mất lòng tin vào khái niệm chiếc ô an ninh của Mỹ và hiệu quả của khả năng răn đe của Mỹ, vốn không chỉ được đo bằng hỏa lực mà còn bằng ý chí.

Mặc dù sẽ bị đe dọa ngay lập tức, nhưng Nhật Bản và Hàn Quốc mỗi nước đều có sức mạnh kinh tế để tăng cường đáng kể khả năng phòng thủ của riêng mình. Hàn Quốc đã là một nhà xuất khẩu quốc phòng lớn. Và cả hai nước đều là nơi đặt các căn cứ quân sự của Mỹ với các khả năng quan trọng. Nhưng nếu họ mất lòng tin vào ý chí chiến đấu của Washington ở châu Á, các căn cứ đó có thể trở thành gánh nặng, khiến mỗi nước khó quản lý quốc phòng và ngoại giao của riêng mình mà không có sự đồng thuận của Mỹ. Logic tương tự mà Vance đã sử dụng để ca ngợi nước Pháp của de Gaulle sẽ được áp dụng cho Nhật Bản và Hàn Quốc. Không có gì thay thế cho việc thiết lập quyền tự chủ có chủ quyền. Cả hai nước có thể kết luận rằng sẽ tốt nhất nếu họ sở hữu một lực lượng răn đe hạt nhân của riêng mình.

Ở những nơi khác ở châu Á, các nước Đông Nam Á quá đa dạng về định hướng địa chính trị để hợp tác về quốc phòng. Một số, như Lào và Myanmar, đã liên kết chặt chẽ với Trung Quốc. Những nước khác được hưởng lợi từ việc phải phòng ngừa giữa Trung Quốc và Mỹ. Nhưng tất cả có thể sẽ nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc nếu Mỹ từ bỏ khu vực này.

Hãy xem xét trường hợp Philippines, một đồng minh hiệp ước chính thức của Mỹ. Philippines đang là mục tiêu những cuộc xâm nhập ngày càng tăng từ Trung Quốc khi Bắc Kinh khẳng định các yêu sách của mình ở Biển Đông. Nhưng ngay cả khi Mỹ có hiệp ước phòng thủ chung với Philippines, họ chỉ dừng lại ở việc phản đối khi Trung Quốc xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo và thậm chí giao tranh trực tiếp với các tàu của Philippines. Trong trường hợp không có sự hỗ trợ vững chắc của Mỹ, Philippines chắc chắn sẽ cảm thấy bị buộc phải đáp ứng các yêu cầu của Trung Quốc.

Trong những năm gần đây, Úc đã trở nên phụ thuộc hơn vào Mỹ ngay cả khi Mỹ trở nên ít đáng tin cậy hơn. Sự năng động này rõ rệt nhất khi nói đến việc thành lập AUKUS, một quan hệ đối tác an ninh năm 2021 giữa Úc, Anh và Mỹ. Úc đã hủy bỏ một chương trình đóng 12 tàu ngầm diesel điện với Pháp để ủng hộ 8 tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân nhưng được trang bị vũ khí thông thường sẽ được đóng với Anh. Tuy nhiên, các tàu này sẽ không sẵn sàng triển khai cho đến những năm 2040. Để lấp đầy khoảng trống giữa việc loại biên đội tàu ngầm cũ của Úc và việc mua sắm trong tương lai, các quan chức đã đồng ý rằng Mỹ sẽ bán cho Úc ba đến năm tàu ngầm lớp Virginia vào khoảng năm 2032. Nhưng luật pháp Mỹ liên quan đến AUKUS quy định cụ thể rằng tàu ngầm không thể được bán trừ khi tổng thống chứng nhận rằng việc bán chúng sẽ không làm suy giảm năng lực dưới nước của Mỹ. Với việc Hải quân Mỹ thiếu khoảng 20 tàu ngầm tấn công so với những gì họ nói là cần thiết và các nhà đóng tàu của Mỹ chỉ đóng khoảng một nửa số tàu ngầm mà Hải quân Mỹ cần để thay thế những tàu cũ, có vẻ như Úc sẽ không bao giờ có được bất kỳ tàu ngầm lớp Virginia nào của riêng mình trong kỷ nguyên “Nước Mỹ trên hết”.

Khi thỏa thuận tàu ngầm AUKUS được đồng ý vào năm 2021, bộ trưởng ngoại giao Pháp, trong sự tức giận dễ hiểu, đã nói: “Úc đã hy sinh chủ quyền vì an ninh. Rất có thể sẽ mất cả hai”. AUKUS có thể là một câu chuyện cảnh báo cho các đồng minh khác. Chủ quyền và quyền tự chủ quan trọng hơn bao giờ hết. Đánh đổi chúng là tự chuốc lấy nguy hiểm.

“Chiến tranh thương mại là tốt và dễ dàng chiến thắng”

Trong lĩnh vực thương mại, Trump cũng tìm cách đảo lộn các mối quan hệ đối tác và liên minh hiện có. Chính sách thuế quan bắt nạt của ông nhằm khẳng định quyền lực của Mỹ và buộc các nước khác nhượng bộ đáng kể, tất cả đều phải trả giá bằng hệ thống thương mại mà Mỹ đã giúp xây dựng. “Những quốc gia này”, Trump nói vào tháng 4, “đang gọi điện cho chúng tôi, nịnh nọt tôi…. Họ đang thèm khát đạt được một thỏa thuận”.

Quan điểm của tôi, dựa trên kinh nghiệm với Trump, là nịnh bợ ông ấy chính là cách làm sai lầm. Chương trình nghị sự của Trump là sử dụng thuế quan để buộc các nhà nhập khẩu chuyển sản xuất của họ sang Mỹ. Tất nhiên, cách tiếp cận này thách thức các nguyên tắc cơ bản của kinh tế học. Ví dụ như Canada, nơi Mỹ nhập khẩu khoảng 40% nhôm của mình. Việc sản xuất nhôm đòi hỏi lượng lớn năng lượng rẻ. Canada có nguồn thủy điện dồi dào, và kết quả là chi phí năng lượng của ngành công nghiệp nhôm lớn của họ chỉ bằng một phần ba so với ngành công nghiệp nhôm của Mỹ. Canada có lợi thế so sánh tự nhiên. Mức thuế 50% (tăng từ 25%) mà Trump áp dụng đối với nhôm sẽ làm tăng giá nhôm trong nước, chỉ mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất nhôm của Mỹ mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng và các nhà sản xuất khác.

Trump không tin vào lợi thế so sánh. Thay vào đó, nếu một quốc gia có thâm hụt thương mại, đó là một kẻ thua cuộc. Nếu có thặng dư thương mại, đó là một kẻ chiến thắng. Tôi nhớ đã gặp ông ấy ở Manila vào tháng 11 năm 2017 khi tôi là thủ tướng Úc. Ông ấy đã phàn nàn cay đắng về quy mô thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc. Ông ấy hỏi tôi điều gì sẽ xảy ra nếu ông ấy cấm tất cả hàng nhập khẩu của Trung Quốc. Tôi lặng lẽ trả lời, “Một cuộc suy thoái toàn cầu”. Đó có thể là một cái giá mà ông ấy sẵn lòng trả, nhưng phần còn lại của thế giới không nên để chính sách của Mỹ đẩy nền kinh tế toàn cầu vào tình trạng hỗn loạn.

Những quốc gia vẫn tin vào tự do thương mại cần hợp tác để thúc đẩy các thỏa thuận tự do thương mại mới (và mở rộng các thỏa thuận hiện có) mà không có sự tham gia của Mỹ. Chẳng hạn, hãy xem xét Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), kế thừa của TPP. Trump đã rút khỏi TPP sau khi nhậm chức Tổng thống vào năm 2017. Hầu hết đều tin rằng thỏa thuận này đã chết. Một số thành viên TPP, bao gồm Nhật Bản, rất hoài nghi về khả năng ký kết một thỏa thuận mà không có Mỹ. Một số lo lắng rằng động thái như vậy sẽ làm phật lòng Trump. Tôi đã có thể thuyết phục Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe rằng ông ấy không nên lo lắng về điều đó. Hơn nữa, Mỹ một ngày nào đó có thể thay đổi ý định; bằng cách duy trì thỏa thuận, chúng ta sẽ, trên thực tế, bảo toàn khả năng Mỹ trở lại.

Đến đầu năm 2018, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương đã mất đi một thành viên và có thêm hai tính từ; Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương với 11 nước thành viên đã được khai sinh. Anh đã gia nhập hiệp định thương mại này và một số nền kinh tế lớn khác, bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia và Đài Loan, đã bày tỏ sự quan tâm đến việc tham gia. CPTPP là thỏa thuận thương mại quốc tế quan trọng nhất từng được đàm phán kể từ khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay vào năm 1994 dẫn đến việc thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới. Nó đã được ký kết ngay cả khi làn sóng bảo hộ đang nổi lên ở các quốc gia trên thế giới. Không giống như các thỏa thuận thương mại truyền thống, CPTPP không chỉ đơn thuần là giảm thuế đối với hàng hóa mà còn đặt ra các quy tắc ràng buộc về thương mại kỹ thuật số, thương mại điện tử, luồng dữ liệu và bảo vệ sở hữu trí tuệ. Nó thực thi các quyền lao động cốt lõi, bao gồm quyền thành lập công đoàn độc lập, và cấm phân biệt đối xử trong việc làm dựa trên các đặc điểm như chủng tộc, tôn giáo và giới tính. Và nó buộc các bên phải tránh ưu tiên các doanh nghiệp nhà nước của họ theo cách gây bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. CPTPP là một câu trả lời táo bạo cho sự từ chối vai trò lãnh đạo thương mại đa phương của Trump. Các thành viên của nó đã chứng minh rằng họ có thể giảm thiểu sự phụ thuộc vào sự bất ổn chính trị và chủ nghĩa đơn phương thương mại của Mỹ và đồng thời chứng minh rằng việc thiết lập quy tắc toàn cầu có thể tiếp tục mà không cần sự tham gia hoặc đồng ý của Mỹ.

Các đồng minh của Mỹ cần tìm kiếm các giải pháp thay thế cho sức mạnh của thị trường Mỹ. Các nước châu Âu đã có khu vực tự do thương mại rộng lớn của riêng mình, nhưng họ đang tìm cách thiết lập nhiều mối quan hệ tự do thương mại hơn với các nước khác. Các cuộc đàm phán thương mại giữa EU và Úc, bắt đầu vào năm 2017 nhưng bị đình chỉ vào năm 2023 vì các vấn đề xuất khẩu nông sản, đã được nối lại. Và như Macron đã nói ở Singapore vào tháng 5, EU đang tìm cách ký kết các hiệp định thương mại mới với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và thậm chí có thể tham gia hoặc liên kết với CPTPP.

Hai đồng minh kiên định của Mỹ ở Đông Á—Nhật Bản và Hàn Quốc—đang tìm kiếm mối quan hệ chặt chẽ hơn với Trung Quốc. Khi những đồn đoán về thuế quan của Trump lan rộng vào tháng 3, các bộ trưởng ngoại giao của ba nước đã đồng ý đàm phán “toàn diện và cấp cao” hướng tới một thỏa thuận tự do thương mại. Một thỏa thuận như vậy sẽ giúp xây dựng “một môi trường thương mại và đầu tư có thể dự đoán được” giữa bối cảnh biến động do Washington gây ra. Trump có thể tự hào về việc đưa ba quốc gia này xích lại gần nhau hơn; xét đến những thù địch lịch sử của họ, đó sẽ là một thành tựu đáng kể (mặc dù không chủ ý).

Một thế giới tăm tối

Trung Quốc được lợi rất nhiều từ những bất ổn trong chính sách đối ngoại của Trump. Trung Quốc luôn cảm thấy khó chịu trước cách Mỹ và đồng đô la thống trị hệ thống thương mại và tài chính toàn cầu. Vị thế ưu việt đó đang bị lung lay không phải do bất cứ điều gì Trung Quốc đã làm mà bởi các hành động của Trump. Sự hỗn loạn trên thị trường trái phiếu sau các thông báo thuế quan của Trump vào tháng 4 cho thấy niềm tin vào sự ổn định và sức mạnh của Mỹ đang suy giảm.

Hãy xem xét sự điên rồ trong cách Trump đối xử với Úc. Mỹ có thặng dư thương mại lớn với Úc; theo cách nói của Trump, Mỹ đã thắng trong mối quan hệ song phương này. Mỹ không có đồng minh hay đối tác thương mại nào tốt hơn. Thế nhưng ông lại chọn áp đặt mức thuế 10% chung cho hàng hóa Úc và mức thuế 25% (hiện là 50%) đối với thép và nhôm Úc cùng lúc khi Washington đang cố gắng tập hợp các đồng minh chống lại Trung Quốc. Một phần ba kim ngạch xuất khẩu của Úc đi sang Trung Quốc. Trong những hoàn cảnh này, Canberra sẽ miễn cưỡng tuân thủ chặt chẽ hơn đường lối của Washington. Việc làm chậm tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc (và nhu cầu của Trung Quốc đối với tài nguyên của Úc) khó có thể vì lợi ích của Úc.

Trump không giả vờ rằng ông đang cố gắng mang lại một nền thương mại thực sự công bằng hay một sân chơi bình đẳng. Mục tiêu của ông là tái công nghiệp hóa nước Mỹ, đưa các nhà máy trở lại từ Trung Quốc, châu Âu và Đông Nam Á. Và ông muốn khẳng định quyền bá chủ của Mỹ ở Tây Bán cầu ngay cả khi ông đang thu hẹp sự tham gia của Mỹ vào phần còn lại của thế giới. Các cử tri ở Mỹ cuối cùng sẽ phải quyết định liệu đây có phải là những mục tiêu khả thi hay đáng giá hay không, nhưng các đồng minh của Mỹ lẽ ra đã phải đưa ra quyết định của mình.

Các đồng minh của Mỹ thường tin tưởng vào Mỹ và vào các giá trị của Mỹ chủ yếu dựa trên hy vọng hơn là kỳ vọng. Nhưng niềm tin đó là có thật, và giờ đây nó đang rạn nứt. Trump mang đến một kiểu niềm tin khác cho Mỹ: sự chắc chắn rằng Washington sẽ hành động tàn nhẫn vì lợi ích riêng và dùng sức mạnh của mình để giành lấy những thỏa thuận tốt nhất. Các nhà lãnh đạo Mỹ trong tương lai có thể cố gắng khôi phục vai trò lãnh đạo đạo đức của đất nước, nhưng niềm tin đã mất rất khó lấy lại. Các thỏa thuận thương mại đến rồi đi, nhưng nếu ánh sáng trên ngọn đồi chỉ chiếu rọi cho người Mỹ, thì Trump sẽ tạo ra một thế giới tối tăm hơn cho tất cả những người khác.

MALCOLM TURNBULL là Thủ tướng Úc từ năm 2015 đến năm 2018.