Nguồn: Daniel Byman, “The Intifada That Hasn’t Arrived,” Foreign Affairs, 28/07/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Tại sao các cuộc chiến gần đây của Israel lại ít kích động khủng bố và không dẫn đến các cuộc nổi dậy hàng loạt?
Trung Đông đang trong khủng hoảng, và Israel chính là tâm điểm của cơn bão. Kể từ cuộc tấn công bất ngờ của Hamas vào ngày 07/10/2023, khiến khoảng 1.200 người Israel thiệt mạng, quân đội Israel đã tấn công và chiếm đóng phần lớn Dải Gaza, tăng cường các chiến dịch ở Bờ Tây, tiêu diệt các mục tiêu Houthi ở Yemen, tàn phá Hezbollah ở Lebanon, đánh vào các địa điểm hạt nhân và quân sự ở Iran, và ném bom một số khu vực của Syria. Tất cả những kẻ thù này đều có liên hệ với khủng bố: trong những thập kỷ trước ngày 07/10, Hamas và Hezbollah từng sử dụng khủng bố để chống lại Israel, giết chết hơn 1.000 dân thường cùng một lượng tương đương binh sĩ. Thông qua các lực lượng ủy nhiệm và lực lượng của chính mình, Iran đã tấn công các mục tiêu Israel và Do Thái trên khắp thế giới. Chính quyền Trump gần đây vừa tái chỉ định Houthi là một nhóm khủng bố, trong khi người cai trị mới của Syria, Ahmed al-Shara, đã lãnh đạo một nhóm từng có liên hệ với al-Qaeda.
Trong bối cảnh này, Israel dường như đang tự rước lấy một làn sóng tấn công khủng bố mới, thậm chí có thể là một cuộc nổi dậy quy mô lớn. Cuộc chiến ở Gaza đã gây ra muôn vàn đau khổ cho dân thường. Cùng lúc đó, Israel đang bóp nghẹt Bờ Tây bằng các cuộc đột kích vào những nơi ẩn náu bị nghi ngờ là của khủng bố. Những chiến dịch này đã khiến khoảng 1.000 người thiệt mạng và buộc hàng chục nghìn người Palestine phải di dời. Cộng thêm việc mở rộng các khu định cư của Israel ở Bờ Tây và những hành vi tàn bạo của những người định cư Do Thái, người Palestine và các công dân Ả Rập của Israel có rất nhiều lý do để phẫn nộ với Israel.
Nhưng bất chấp sự giận dữ đó, và bất chấp danh sách dài các kẻ thù của Israel, số vụ tấn công khủng bố bên trong Israel kể từ ngày 07/10 lại thấp đến ngạc nhiên. Israel không phải đối mặt các vụ tấn công khủng bố gây thương vong lớn, hay thậm chí là một loạt các vụ việc nhỏ lẻ kéo dài. Một cuộc intifada (nổi dậy) lần thứ ba, trong đó người Palestine sẽ đứng lên chống lại sự chiếm đóng của Israel như họ đã làm trong giai đoạn 1987-1993 và 2000-2005, vẫn là một viễn cảnh xa vời. Nguyên nhân phần lớn là do thành công của các chiến dịch chống lại kẻ thù của Israel, cũng như sự hỗn loạn bên trong lực lượng kẻ thù, khả năng kiểm soát chặt chẽ của Israel đối với các vùng lãnh thổ Palestine, và hệ thống phòng thủ nội bộ được củng cố mạnh mẽ. Tuy nhiên, thành công đó cũng đi kèm với những cái giá rất đắt. Ngoài việc giết hại nhiều dân thường, cách tiếp cận hung hăng của Israel còn đe dọa loại bỏ các giải pháp chính trị tiềm năng cho nhiều cuộc xung đột mà nước này đang vướng vào. Trong lúc cố gắng ngăn chặn kẻ thù và tự bảo vệ mình khỏi các cuộc tấn công khủng bố, trên thực tế, Israel sẽ bước vào tình trạng chiến tranh vĩnh viễn.
CHUÔNG NGUYỆN HỒN AI?
Tất nhiên, dân thường Israel vẫn đang bị đe dọa. Iran, Hamas, Hezbollah, và Houthi đã sử dụng rocket, tên lửa, và máy bay không người lái để tấn công Israel suốt hai năm qua. Nhưng những vụ việc này có nhiều điểm chung với bản chất đang phát triển của chiến tranh thông thường, như đã thấy ở Ukraine, hơn là với các vụ đánh bom liều chết, xả súng, đâm dao, và đâm xe, vốn là hành động quen thuộc của những kẻ khủng bố chống lại người Israel trong những thập kỷ gần đây. Vụ việc tồi tệ nhất thuộc loại này trong hai năm qua xảy ra vào tháng 10/2024, khi hai chiến binh có liên hệ với Hamas giết chết bảy người trong một vụ xả súng và đâm dao trên một chuyến tàu điện ở Jaffa. Theo truyền thông đưa tin, ước tính có 20 dân thường Israel đã bị khủng bố giết hại bên trong Israel kể từ tháng 10/2023 và thêm 14 người khác ở Bờ Tây. Quân đội Israel cũng mất khoảng 17 binh sĩ ở Israel và Bờ Tây. Nhưng những con số này đang giảm dần: trong ba tháng đầu năm 2025, chỉ có 18 vụ tấn công ở Bờ Tây, so với 72 vụ trong cùng kỳ năm 2024. Những kẻ khủng bố cũng không thành công trong việc nhắm mục tiêu vào các cơ sở của Israel hoặc người Israel ở nước ngoài, như chúng từng làm trong thế kỷ 20.
Xét đến tình trạng chiến tranh triền miên của Israel trong hai năm qua, con số thương vong từ khủng bố này có vẻ tương đối nhỏ. Quả vậy, Israel chưa phải chịu đựng bất cứ điều gì ở quy mô tương tự những gì họ đã phải chịu đựng trong các giai đoạn bạo lực leo thang trước đây. Trong thập niên 1990, các vụ đánh bom xe, tấn công liều chết, và bắt cóc, như vụ đánh bom liều chết năm 1996 giết chết 26 người tại một trạm xe buýt ở Jerusalem và một vụ khác diễn ra một tuần sau đó giết 19 người, đã phần nào làm chệch hướng các cuộc đàm phán hòa bình. Trong cuộc intifada lần thứ hai, Israel đã phải chịu đựng con số kinh hoàng 138 vụ đánh bom liều chết, bao gồm 53 vụ chỉ riêng trong năm 2002, cùng với hàng nghìn vụ xả súng và các hình thức tấn công ít gây chết người khác. Hơn 1.000 người Israel đã thiệt mạng trong giai đoạn đó.
Ngoài các nhóm bán chính quyền như Hamas và Phong trào Hồi giáo Jihad Palestine, Iran cũng sử dụng các hành động khủng bố chống lại Israel, thường là hợp tác với Hezbollah, lực lượng ủy nhiệm thân cận nhất của họ. Một trong những vụ tấn công nổi bật xảy ra vào năm 1992, khi Iran và Hezbollah đánh bom đại sứ quán Israel ở Buenos Aires, khiến 29 người thiệt mạng. Sang năm 1994, họ tiếp tục sát hại 84 người khi đánh bom một trung tâm cộng đồng Do Thái ở Argentina (Iran và Hezbollah thường tuyên bố rằng các mục tiêu Israel và mục tiêu Do Thái và là một). Một kẻ đánh bom liều chết bị tình nghi có liên hệ với Hezbollah đã cho nổ tung một chiếc xe buýt chở đầy khách du lịch Israel ở Bulgaria vào năm 2012, giết chết năm người Israel và một tài xế xe buýt người Bulgaria. Iran và Hezbollah tuyên bố rằng tất cả các cuộc tấn công này là nhằm trả thù cho các tội ác của Israel, bao gồm các vụ sát hại các nhà khoa học hạt nhân Iran và nhắm mục tiêu vào các nhà lãnh đạo Hezbollah ở Lebanon.
Vậy mà giờ đây, trong lúc Gaza tiếp tục bị tàn phá và sau khi Israel đã hành động hung hăng và khiêu khích trên khắp Trung Đông, người Israel ở cả trong và ngoài nước vẫn chưa phải đối mặt với cùng mức độ đe dọa. Kẻ thù của Israel chắc chắn không thiếu động lực. Hồi tháng 6, Israel đã tiến hành một chiến dịch ném bom kéo dài, phá hủy phần lớn chương trình hạt nhân của Iran, đồng thời ám sát nhiều chỉ huy quân sự và nhà khoa học hạt nhân Iran. Ngoài những tổn thất về người và kỹ thuật, cuộc tấn công của Israel còn là một sự sỉ nhục đối với chế độ Iran, vốn đã tự khẳng định mình phần lớn nhờ vào thái độ kiên trì thách thức Israel. Vào tháng 9 và tháng 10/2024, sau một cuộc chiến quy mô nhỏ kéo dài, Israel đã làm suy yếu Hezbollah thông qua một loạt vụ ám sát, bao gồm cả vụ ám sát Hassan Nasrallah, thủ lĩnh lâu năm được kính trọng của nhóm này. Tình báo Israel đã nhắm mục tiêu vào hàng nghìn đặc vụ Hezbollah trong một chiến dịch đánh bom đẫm máu kinh hoàng, cài đặt chất nổ vào máy nhắn tin và bộ đàm, trong khi quân đội Israel phát động một chiến dịch ném bom tàn khốc nhắm vào ban lãnh đạo và cơ sở hạ tầng quân sự của nhóm (và đã giết hại hoặc làm bị thương nhiều dân thường trong quá trình này). Hezbollah, giống như Iran, đã xây dựng tính chính danh và kêu gọi sự ủng hộ của công chúng bằng cuộc chiến chống lại Israel. Khi những điểm yếu của Hezbollah bị phơi bày rộng rãi, cuộc xung đột một chiều năm 2024 trở thành sự sỉ nhục tột cùng đối với nhóm người từng được ca ngợi này.
Về phần mình, Hamas, tất nhiên, đã phải đối mặt với một cuộc tấn công tổng lực từ Israel, mất gần như toàn bộ ban lãnh đạo và hàng ngàn chiến binh. Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đã nhiều lần thề sẽ tiêu diệt nhóm này. Trái ngược với Iran và Hezbollah, Hamas gần như không có động lực nào để kiềm chế các cuộc tấn công: Chiến dịch của Israel diễn ra không ngừng nghỉ, và các hình thức khủng bố cũ có thể là cách tốt nhất để trả thù và chứng minh sự liên quan liên tục của Hamas. Israel cũng đã mở rộng đáng kể các chiến dịch ở Bờ Tây, nhắm mục tiêu vào Hamas và các chiến binh Palestine khác ở đó, đồng thời cho phép người định cư Israel lộng hành, quấy rối, tấn công, và thậm chí giết hại người Palestine. Các vụ tấn công của người định cư trong vài tháng đầu năm 2025 đã tăng 30% so với năm trước.
Những cuộc tấn công vào người Palestine này có thể dễ dàng gây ra bạo lực trả đũa trên diện rộng. Tuy nhiên, điều đó đã không xảy ra, bất chấp tất cả những tức giận và kinh hoàng mà hành vi của Israel đã gây ra cho người Palestine và trong khu vực rộng lớn hơn trong những năm gần đây.
RĂN ĐE CHẾT NGƯỜI
Có nhiều yếu tố giải thích tại sao Israel không phải hứng chịu một loạt các cuộc tấn công khủng bố truyền thống. Nước này đã liên tục tàn phá giới lãnh đạo của Hamas, Hezbollah, và giờ là Iran. Như các chiến dịch của Israel chống lại Hamas trong quá khứ đã chứng minh, việc tiêu diệt thủ lĩnh của các nhóm khủng bố, đặc biệt là với tốc độ nhanh chóng, có thể làm suy yếu hiệu quả và năng lực tổng thể của các tổ chức này. Việc liên tục thay đổi các nhân vật cấp cao sẽ gây ra sự nhầm lẫn trong hàng ngũ cấp dưới và khiến việc triển khai các chiến dịch trở nên khó khăn. Yêu cầu phòng thủ trước các cuộc không kích của Israel cũng tạo ra những vấn đề hậu cần riêng. Các nhà lãnh đạo phải tránh sử dụng điện thoại, email, và các hình thức liên lạc khác vì sợ bị lộ vị trí. Họ phải tin tưởng ít người và gặp gỡ ít người hơn. Nói đơn giản, họ không thể thực hiện các chức năng lãnh đạo nếu muốn sống sót.
Chắc chắn, việc làm gián đoạn ban lãnh đạo của các nhóm khủng bố không thể ngăn chặn hoàn toàn các hoạt động khủng bố. Hơn nữa, các cuộc tấn công không phối hợp do các cá nhân thực hiện một mình vẫn có thể xảy ra, như đã từng xảy ra ở Israel kể từ năm 2023. Tuy nhiên, nếu không có cơ cấu phối hợp và chỉ đạo, những kẻ khủng bố sẽ khó có thể thực hiện các chiến dịch phức tạp hơn, với khả năng thành công cao hơn, và giết chết nhiều người hơn.
Các hoạt động quân sự và tình báo của Israel ở Bờ Tây cũng đã kiềm chế Hamas và các nhóm chiến binh khác dù chúng gây tổn hại cho người Palestine. Lực lượng Israel đã tràn vào Bờ Tây, bắt giữ những kẻ tình nghi khủng bố và giết chết những người khác. Ví dụ, Chiến dịch Bức tường Sắt, được tiến hành hồi tháng 1 ngay sau khi tuyên bố ngừng bắn ở Gaza, đã chứng kiến quân đội và xe tăng Israel tràn vào Jenin, cùng với hơn 100 cuộc không kích và tấn công bằng máy bay không người lái vào các mục tiêu của Palestine. Các quan chức Israel khẳng định rằng mình chỉ đơn giản tìm cách phá hủy các điểm xuất phát tấn công vào Israel, nhưng quân đội Israel dường như cũng đang chuẩn bị cho sự hiện diện lâu dài ở Jenin, Tulkarm, và các khu vực khác ở Bờ Tây mà họ cho là điểm nóng của chiến binh Palestine.
Israel cũng đã mở rộng đáng kể việc sử dụng biện pháp giam giữ hành chính ở Bờ Tây và cô lập một số vùng lãnh thổ với các khu vực khác, ngăn cản chiến binh – cũng như người dân Palestine – di chuyển qua lại. Chí ít là theo số liệu thống kê chính thức của Israel, cách tiếp cận cứng rắn này đã mang lại những kết quả tích cực: so với năm 2024, các âm mưu khủng bố xuất phát từ Bờ Tây đã giảm đáng kể.
Israel cũng đã chặn nhiều người Palestine nhập cảnh vào Israel. Ngoài việc phong tỏa Gaza, Israel còn đình chỉ khoảng 150.000 giấy phép lao động của người Palestine ở Bờ Tây, ngăn họ vượt biên vào Israel. Những hạn chế di chuyển này, ở cả bên trong Bờ Tây và giữa Bờ Tây với Israel, chắc chắn sẽ khiến các chiến binh khó tổ chức các hoạt động bên trong lãnh thổ Israel hơn. Các nhà chức trách Israel tuyên bố rằng họ đã ngăn chặn hơn 1.000 âm mưu quan trọng vào năm 2024 ở Bờ Tây.
Ngoài ra, Israel đã củng cố hệ thống phòng thủ nội bộ và biên giới. Sau vụ tấn công ngày 07/10, Israel đã nhanh chóng sửa chữa hàng rào an ninh bị phá vỡ dọc biên giới với Gaza. Quân đội nước này cũng đã thiết lập các vùng đệm bên trong Gaza và duy trì lực lượng tại một số tiền đồn bên trong Lebanon. Israel đã triển khai quân dọc biên giới Ai Cập với Gaza và biên giới Jordan với Bờ Tây để ngăn chặn nạn buôn lậu vũ khí vào lãnh thổ Palestine. Và họ cũng đã tăng cường lực lượng dọc biên giới với Lebanon và Syria. Những bước đi này khiến Hamas, Hezbollah, và các nhóm chiến binh khác khó đưa đặc vụ thâm nhập vào Israel hơn.
Chính quyền Israel còn tăng cường giám sát công dân Palestine tại Israel; người Ả Rập hiện chiếm khoảng một phần năm tổng dân số Israel (không bao gồm Bờ Tây và Dải Gaza). Các thành viên của cộng đồng này nằm trong số những nạn nhân của vụ tấn công ngày 07/10, nhưng quy mô trả đũa của Israel ở Gaza và Bờ Tây chắc chắn đã khiến một số người Israel gốc Ả Rập trở nên cực đoan chống lại đất nước. Shin Bet, cơ quan an ninh và phản gián nội địa của Israel, hiện đang tăng cường giám sát các khu dân cư có tỷ lệ người Ả Rập cao và đã bắt giữ hàng trăm người.
Với việc Israel đang ở thế chủ động trong các chiến dịch quân sự ở Gaza và Bờ Tây, và với loạt hành động tàn bạo của người định cư Israel, các chiến binh Palestine đang tập trung vào các hoạt động ở những khu vực này thay vì tìm kiếm mục tiêu bên trong Israel. Ví dụ, các chiến binh Palestine thường xuyên sử dụng bom ven đường để chống lại lực lượng Israel ở Bờ Tây. Nhưng phần lớn các cuộc tấn công của chiến binh nhắm vào quân đội Israel đều không gây ra thương vong.
Sự mệt mỏi và vỡ mộng có lẽ đang dần hình thành trong lòng người Palestine. Các cuộc thăm dò dư luận hồi tháng 5 cho thấy 75% người Palestine ở Bờ Tây lo ngại chiến tranh sẽ lan sang Bờ Tây, dẫn đến sự tàn phá tương tự như ở Gaza. Dù khoảng một nửa số người Palestine trên khắp Gaza và Bờ Tây vẫn ủng hộ quyết định tấn công của Hamas vào ngày 07/10, nhưng tỷ lệ này đã giảm so với mức cao nhất là 72% vào tháng 12/2023. Nhiều người Palestine vẫn tin rằng việc chiến đấu với Israel là điều đúng đắn, nhưng sự tàn phá ở Gaza đang khiến nhiều người suy nghĩ lại về cái giá phải trả của bạo lực.
Đối với Hezbollah, và có lẽ cả Iran, còn một yếu tố khác: sự răn đe. Cả trước và sau các chiến dịch năm 2024 của Israel, Hezbollah đều không muốn leo thang chiến tranh, sợ rằng họ sẽ thua, và điều này đã xảy ra trên thực tế. Iran cũng đã tìm cách “đi dây” trước khi xảy ra cuộc chiến 12 ngày vào tháng 6, sử dụng tên lửa và máy bay không người lái để tấn công Israel, nhưng lại ra hiệu rằng họ muốn tránh leo thang, thậm chí còn cảnh báo trước cho các quan chức Israel để dân thường có thể đến nơi trú ẩn an toàn và Israel có thể chuẩn bị phòng thủ.
Rất có thể, Israel giờ đây đã thành công trong việc răn đe cả Iran lẫn Hezbollah không tấn công nước này, chí ít là trong một thời gian ngắn. Iran chẳng thu về lợi ích gì khi tái diễn một cuộc chiến toàn diện với Israel. Các cuộc tấn công khủng bố do Iran hậu thuẫn sẽ phá vỡ lệnh ngừng bắn mong manh cũng như bất kỳ cuộc đàm phán nào hướng tới một thỏa thuận hòa bình, dẫn đến việc giao tranh bùng phát trở lại, nhiều khả năng là với sự can thiệp sâu hơn của Mỹ. Hezbollah, đang choáng váng vì những đòn giáng mà họ phải chịu vào năm ngoái, đã không thể hỗ trợ Iran về mặt quân sự trong cuộc chiến bất thành với Israel.
CÁI GIÁ CỦA THÀNH CÔNG
Các chiến dịch tàn khốc của Israel chống lại một loạt các nhóm khác nhau và nỗ lực khuất phục người Palestine cho đến nay vẫn hiệu quả, nhưng việc duy trì những nỗ lực này đòi hỏi một nhịp độ hoạt động cao, vốn đang vắt kiệt sức lực của đất nước. Quân đội Israel, vốn phụ thuộc rất nhiều vào lực lượng dự bị, không được thiết kế cho các chiến dịch dài hơi, như những gì họ đang tiến hành ở Gaza. Israel đã phải tăng thuế để tài trợ cho chiến tranh, và giao tranh liên miên đã tạo ra tình trạng thiếu lao động cũng như một môi trường bất ổn cho các nhà đầu tư. Các quân nhân dự bị Israel dần cảm thấy mệt mỏi vì bị tái triển khai liên tục và ngày càng ghét cay ghét đắng những người Israel theo Chính thống giáo cực đoan, những người được miễn nghĩa vụ quân sự bắt buộc, một ngoại lệ đang thúc đẩy sự chia rẽ xã hội và chính trị.
Thương vong của quân đội Israel cũng rất đáng kể. Hơn 400 binh sĩ Israel đã thiệt mạng khi chiến đấu ở Gaza, và 80 người khác đã hy sinh ở mặt trận phía bắc khi giao tranh với Hezbollah. Trong khi đó, 28 người Israel đã chết do các cuộc tấn công tên lửa trong các cuộc giao tranh gần đây với Iran. Những con số này không thấm vào đâu so với tổn thất quân sự mà Hamas, Hezbollah, và Iran phải gánh chịu, nhưng vẫn là một con số lớn đối với một quốc gia nhỏ bé và nhạy cảm với thương vong.
Số người Israel thiệt mạng đã bị lu mờ so với số người bị Israel sát hại trên khắp khu vực trong hai năm qua. Một vài ước tính cho rằng số thương vong mà Iran phải gánh chịu trong cuộc chiến 12 ngày lên tới gần 1.000 người, với hàng trăm dân thường thiệt mạng. Các cuộc không kích của Israel ở Lebanon đã khiến gần 4.000 người chết, trong đó có nhiều dân thường, và Israel còn giết hàng chục người Yemen và khoảng 1.000 người Palestine ở Bờ Tây kể từ ngày 07/10. Thương vong dân thường ở Gaza rõ ràng cao hơn nhiều, với con số lên đến hàng chục nghìn người (tổng cộng, gần 60.000 người Gaza đã thiệt mạng, bao gồm cả các chiến binh Hamas).
Ngoài cảnh tàn sát, chính quyền Israel dường như còn theo đuổi một chương trình nghị sự mang tư tưởng bành trướng vốn được phe cực hữu trong nước ấp ủ từ lâu. Các hành động ở Gaza và Bờ Tây đã buộc người Palestine phải di dời hàng loạt. Ở Bờ Tây, các hoạt động chống khủng bố tại các trại tị nạn đã trùng khớp với mục tiêu của các chính trị gia cực hữu là trục xuất cư dân ở nơi đây, và chia cắt Bờ Tây thành các vùng đất biệt lập, ngăn cản người Palestine thành lập một nhà nước liền kề với họ. Nhiều người Israel có thể không quan tâm, hoặc có thể xem hành vi của đất nước họ là một “điều ác cần thiết” trong một chiến dịch về cơ bản là chính đáng, nhằm chống lại các nhóm khủng bố và các chính phủ ủng hộ chúng. Tuy nhiên, danh tiếng của Israel đã giảm mạnh trên toàn thế giới, kể cả ở Mỹ. Sự sụt giảm danh tiếng đó dù không cản trở các hoạt động của Israel ngày hôm nay, nhưng nó có thể định hình chúng vào ngày mai.
Nguy cơ khủng bố quốc tế cũng không nhất thiết giảm đi. Tuy Hamas chưa tấn công các mục tiêu của Israel bên ngoài Israel hoặc các vùng lãnh thổ của Palestine, nhưng nguy cơ bị Iran và Hezbollah tấn công vẫn còn cao. Một nghi phạm Iran đã bị bắt giữ trong năm nay tại Đan Mạch vì tội do thám các địa điểm của người Do Thái ở Berlin, bao gồm cả Hiệp hội Đức-Israel.
Cách tiếp cận nặng về quân sự của Israel cũng làm giảm tính khả thi của các lựa chọn khác. Dù vụ tấn công khủng bố ngày 07/10 đã khơi dậy một số hy vọng rằng giải pháp hai nhà nước hoặc một giải pháp đàm phán khác có thể là kết quả cuối cùng của việc Israel tiêu diệt Hamas, nhưng các nhà lãnh đạo và công chúng Israel không mấy tin tưởng vào khả năng đàm phán hòa bình thành công. Mặt khác, việc Israel phá hủy và chiếm đóng phần lớn Gaza đã khiến người Palestine càng không muốn hòa giải và tha thứ cho Israel. Hành động của Israel ở Bờ Tây chỉ làm suy yếu uy tín của các quan chức Chính quyền Palestine và những bên khác từng tìm cách đàm phán với Israel.
Khi không có giải pháp chính trị nào trong tầm mắt, Israel nhiều khả năng sẽ tiếp tục cách tiếp cận “cắt cỏ” đối với Gaza cũng như khu vực rộng lớn hơn. Họ sẽ tập trung vào việc hủy hoại năng lực của kẻ thù, thừa nhận rằng bất kỳ chiến dịch quân sự nào cũng chỉ có tác dụng tạm thời và Israel cuối cùng sẽ phải làm điều đó nhiều lần để ngăn chặn mối đe dọa tái diễn. Một chiến lược như vậy có thể thành công trong việc bảo vệ người Israel khỏi bạo lực khủng bố. Nhưng nó chắc chắn sẽ gây hại cho dân thường và làm giảm cơ hội đạt được một giải pháp chính trị về lâu dài. Trong nỗ lực bảo vệ mình khỏi chủ nghĩa khủng bố, Israel sẽ tạo ra những cuộc chiếm đóng tốn kém và những cuộc chiến vĩnh viễn, vốn làm suy kiệt nền kinh tế, làm trầm trọng thêm chia rẽ xã hội, và làm sâu sắc thêm sự cô lập quốc tế của nước này.
Daniel Byman là giáo sư tại Trường Dịch vụ Đối ngoại thuộc Đại học Georgetown và là Giám đốc Chương trình Chiến tranh, Các mối đe dọa bất thường, và Khủng bố tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế.