Tại sao an ninh năng lượng không thể tách rời an ninh khí hậu?

Nguồn: Gernot Wagner, “Climate Security Is Energy Security”, Project Syndicate, 11/08/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Trong số tất cả những điều bất định do chính quyền của Donald Trump tạo ra trong sáu tháng qua, một điều rõ ràng là: công nghệ “khí hậu” đang bị loại bỏ, và công nghệ “năng lượng” đang được ưu tiên. Nhưng trong khi việc chấp nhận sự thay đổi từ ngữ này có thể xoa dịu một số người, thì nó cần được nhìn nhận đúng bản chất: đó chỉ là sự thay đổi cách dùng từ. Các lực lượng kinh tế và công nghệ cơ bản đang đẩy thế giới rời xa dầu, than và khí đốt, xu thế hướng tới các công nghệ hiệu suất cao, phát thải carbon thấp vẫn không suy giảm.

Trong hai thập kỷ qua, biến đổi khí hậu đã là một vấn đề hàng đầu trong chương trình nghị sự toàn cầu, thúc đẩy các nỗ lực triển khai các công nghệ giúp giảm lượng khí thải carbon dioxide. Những nỗ lực đó hiện đang phải đối mặt với những trở ngại, và không chỉ ở Mỹ. Những diễn biến địa chính trị ở những nơi khác, như cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine, đã thu hút sự chú ý đến tầm quan trọng của khả năng chi trả và an ninh năng lượng hơn các cân nhắc khác.

Các nhà hoạch định chính sách ở Mỹ, châu Âu và các nơi khác ban đầu đã phản ứng với cuộc chiến bằng cách tăng cường chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch, và có lý do chính đáng. Dầu, than và khí đốt là những mặt hàng mà giá cả sẽ luôn gắn liền với những biến động địa chính trị (điều đó không chỉ áp dụng cho thị trường dầu mỏ toàn cầu mà còn cho thị trường khí đốt khu vực, vốn ngày càng được liên kết bởi thương mại khí tự nhiên hóa lỏng).

Điển hình là mùa hè năm 2022 đã gây ra lạm phát lớn, phần lớn do giá nhiên liệu hóa thạch tăng vọt. Giá khí đốt của châu Âu đạt đỉnh gấp mười lần mức trung bình dài hạn, và giá khí đốt của Mỹ gấp khoảng ba lần mức trung bình dài hạn. Mặc dù Đạo luật Giảm lạm phát của Mỹ năm 2022 bị nhiều người coi là một tên gọi sai, nhưng lịch sử sẽ đánh giá tên gọi này một cách tử tế: Cách duy nhất vĩnh viễn để giải quyết những đợt “lạm phát hóa thạch” như vậy là ngừng sử dụng nhiên liệu hóa thạch.

Mặc dù phản ứng dữ dội chống lại các chính sách khí hậu đặc biệt mạnh mẽ ở cấp liên bang tại Mỹ, nhưng châu Âu cũng đã trải qua một sự suy thoái. Điều này phần nào dễ hiểu, dù còn thiển cận. Đức, nền kinh tế lớn nhất châu Âu, đã suy thoái hơn hai năm, với giá năng lượng cao là một nguyên nhân chính. Các công nghệ khí hậu đã khả thi về mặt thương mại, tất nhiên, có thể giúp ích. Nhưng để tận dụng tối đa giá thấp hơn của năng lượng mặt trời, gió và (ngày càng tăng) pin, cần có sự sẵn sàng cải cách thị trường điện và chuyển những khoản tiết kiệm này cho các hộ gia đình và người tiêu dùng công nghiệp. Nó cũng đòi hỏi nhiều khoản đầu tư công ban đầu hơn, một lĩnh vực mà các ưu tiên khí hậu cạnh tranh với các ưu tiên khác như an ninh quốc gia, vốn thường được coi là cấp bách hơn.

Để giải quyết những sự đánh đổi này, Liên minh châu Âu đã đưa ra các biện pháp hiệu quả mà “Bộ Hiệu quả Chính phủ” (DOGE) của Trump đã hứa hẹn nhưng không thực hiện được. Ví dụ, châu Âu đã giảm cơ chế điều chỉnh biên giới carbon bằng cách yêu cầu chưa tới 90% công ty phải tuân thủ.

Về bề ngoài, điều này dường như là một đòn giáng quyết định vào mục tiêu thiết lập thuế carbon đối với hàng nhập khẩu, tương xứng với sự cắt giảm của DOGE của Trump. Nhưng không giống như Trump và Elon Musk, EU đã đảm bảo rằng 10% các nhà nhập khẩu còn lại vẫn chiếm hơn 90% lượng khí thải. Kết quả này còn xa mới lý tưởng khi chỉ nhìn qua lăng kính khí hậu. Nhưng nếu nhìn từ góc độ kinh tế-khí hậu rộng hơn, đó chính xác là loại can thiệp mang tính phẫu thuật mà DOGE đã hứa hẹn nhưng không bao giờ thực hiện.

Tuy nhiên, việc điều chỉnh các chính sách khí hậu nhỏ nhặt đã bỏ qua bức tranh lớn hơn. Trong khi châu Âu và Mỹ đang thụt lùi, Trung Quốc đang tiến lên mạnh mẽ. Chỉ riêng nước này đã chiếm hơn 40% trong tổng số 2,1 nghìn tỷ USD kỷ lục đầu tư toàn cầu vào quá trình chuyển đổi năng lượng năm ngoái – nhiều hơn EU, Anh và Mỹ cộng lại.

Sự mất cân bằng thậm chí còn lớn hơn đối với các công nghệ năng lượng sạch cụ thể. Trung Quốc sản xuất khoảng 75% tấm pin mặt trời và 80% pin lithium-ion của thế giới. Sự thống trị đó là kết quả của một chính sách công nghiệp xanh phối hợp, trong đó đổi mới đóng vai trò chủ chốt. Quan điểm cho rằng Trung Quốc chỉ sản xuất và lắp ráp là hoàn toàn lỗi thời. Ví dụ, xe điện của Trung Quốc đã không còn đối thủ. BYD, nhà sản xuất ô tô hàng đầu của nước này, gần đây đã công bố một hệ thống sạc đột phá có khả năng tăng thêm 470 km quãng đường chỉ trong năm phút, đưa công ty vào một đẳng cấp riêng trên toàn cầu.

Sự thống trị của Trung Quốc mở rộng sang các công nghệ chưa cạnh tranh được nếu không có sự hỗ trợ về giá. LONGi, một trong những nhà sản xuất năng lượng mặt trời hàng đầu thế giới, đã thành lập LONGi Hydrogen vào năm 2021 để theo đuổi sản xuất hydro xanh. Hiện tại, công ty này dẫn đầu thế giới về công suất sản xuất máy điện phân.

Đây không phải là những ví dụ đơn lẻ. Chính sách công nghiệp đầy tham vọng của Trung Quốc đã giúp đưa năm công ty hydro Trung Quốc khác vào top mười toàn cầu. Liệu châu Âu và Mỹ đã thua trong cuộc đua giành tương lai này?

Trong khi Mỹ dường như đang quyết tâm biến mình thành một quốc gia dầu mỏ, thì EU có cơ hội để khôi phục vận may năng lượng sạch của mình. Thậm chí, EU còn bắt đầu với một lợi thế chính sách đáng kể: giá CO2 dao động quanh mức 100 USD mỗi tấn mét có nghĩa là hầu hết các công nghệ carbon thấp – từ điện sạch và điện khí hóa đến các phân tử sạch như nhiên liệu sinh học – đã khả thi về mặt kinh tế. Các công nghệ khác, như hydro xanh, sẽ cần thêm hỗ trợ để vượt qua giai đoạn phát triển ban đầu và giảm chi phí sản xuất. Theo Bernd Heid, một đối tác cấp cao tại McKinsey & Company, người đứng đầu Nền tảng Công nghệ Khí hậu của công ty, khoảng 90% công nghệ khí hậu sẽ có lợi nhuận vào năm 2030 với giá carbon 100 USD.

Trong khi Trung Quốc thống trị với sáu trong số mười công ty hàng đầu toàn cầu, thì ba trong số còn lại là của châu Âu. Công ty khởi nghiệp Stegra của Thụy Điển đang xây dựng nhà máy thép carbon thấp đầu tiên trên thế giới sử dụng máy điện phân do ThyssenKrupp Nucera sản xuất, trong đó nhà sản xuất thép Đức nắm giữ phần lớn cổ phần.

Mặc dù những diễn biến chính trị gần đây, Mỹ cũng đã cho thấy rằng sự thay đổi nhanh chóng là khả thi. Mặc dù việc phá vỡ sự thống trị sản xuất năng lượng mặt trời của Trung Quốc sẽ khó khăn, nhưng Mỹ đã đạt được những tiến bộ đáng kể chỉ trong ba năm qua. Đầu năm nay, nước này đã vượt quá 50 gigawatt công suất sản xuất tấm pin, tăng gấp năm lần kể từ năm 2022. 50 GW nguồn cung tấm pin này gần như đáp ứng nhu cầu của Mỹ.

Đúng là việc đưa chuỗi cung ứng năng lượng mặt trời về nước sẽ phải chịu những chi phí chỉ có thể được biện minh bởi các ưu tiên khác ngoài khí hậu, chẳng hạn như an ninh quốc gia hoặc thúc đẩy sản xuất trong nước. Nhưng đó chính là vấn đề. Nếu điều kiện chính trị đòi hỏi phải nhấn mạnh hơn vào các công nghệ như địa nhiệt và hạt nhân, và nếu các công nghệ trước đây được gọi là “công nghệ khí hậu” phải được đổi tên thành “công nghệ năng lượng” nghe trung lập hơn, thì cứ để như vậy. Các động lực lớn hơn thúc đẩy chúng ta hướng tới mục tiêu giảm phát thải carbon vẫn không thay đổi.

Gernot Wagner là nhà kinh tế học khí hậu tại Trường Kinh doanh Columbia.