Cái giá cho sự khó đoán của Trump

Nguồn: Keren Yarhi-Milo, “The Price of Unpredictability”, Foreign Affairs, 02/10/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Trong nhiều thập kỷ, chính sách đối ngoại của Mỹ đã phụ thuộc vào sự uy tín: niềm tin rằng Washington sẽ tôn trọng các cam kết của mình và rằng hành động trong quá khứ của Mỹ là dự báo cho cách họ sẽ hành xử trong tương lai. Ví dụ, Mỹ có thể phát triển một mạng lưới đồng minh rộng lớn vì các đối tác của họ tin tưởng rằng, trong trường hợp bị tấn công, Washington sẽ bảo vệ họ. Mỹ có thể ký kết các thỏa thuận thương mại tự do với các quốc gia trên thế giới và đàm phán các hiệp định hòa bình bởi vì, nhìn chung, Washington được xem là một bên trung gian hòa giải đáng tin cậy. Điều đó không có nghĩa là Mỹ chưa bao giờ gây bất ngờ, hoặc chưa bao giờ nuốt lời hứa. Nhưng trong phần lớn lịch sử hiện đại của mình, họ đã là một quốc gia đáng tin cậy.

Nhưng không giống như bất kỳ tổng thống Mỹ nào trước đây, Donald Trump đã gạt bỏ mọi nỗ lực nhằm duy trì hình ảnh Washington là một đối tác đáng tin cậy hay nhất quán. Những người tiền nhiệm của ông cũng đôi khi đưa ra các quyết định làm suy yếu uy tín của Mỹ. Nhưng sự thiếu nhất quán của Trump ở một mức độ hoàn toàn khác—và dường như là một phần của chiến lược có chủ ý. Ông đề xuất các thỏa thuận rồi lại rút lui. Ông hứa chấm dứt chiến tranh rồi lại mở rộng chúng. Ông chỉ trích các đồng minh của Mỹ và tâng bốc các đối thủ. Với Trump, xu hướng duy nhất là không có xu hướng nào.

Lý thuyết của Trump rất đơn giản. Bằng cách giữ cho bạn bè và kẻ thù mất cân bằng, tổng thống tin rằng ông có thể giành được những thắng lợi nhanh chóng, chẳng hạn như việc các quốc gia châu Âu tăng chi tiêu quốc phòng một cách khiêm tốn. Trump cũng nghĩ rằng sự khó đoán cho phép ông có nhiều không gian linh hoạt hơn trong các vấn đề quốc tế bằng cách đảm bảo rằng các đồng minh và đối thủ luôn phải đoán mò hành động tiếp theo của ông. Cuối cùng, Trump nghĩ rằng ông có thể đe dọa và do đó ngăn chặn đối thủ bằng cách tỏ ra mất kiểm soát—một ý tưởng mà các nhà khoa học chính trị gọi là lý thuyết kẻ điên (madman theory). Như Trump đã từng khoe khoang, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ không bao giờ mạo hiểm phong tỏa Đài Loan khi ông còn là tổng thống vì ông Tập “biết tôi cực kỳ điên rồ”.

Như một số nhà phân tích đã chỉ ra, cách tiếp cận của Trump đã mang lại một vài chiến thắng quốc tế tạm thời. Nhưng về lâu dài, cách tiếp cận của Trump đối với chính trị toàn cầu không có khả năng củng cố đất nước. Các quốc gia khác sẽ tìm cách tán dương Washington trong một thời gian, với hy vọng tránh bị Mỹ trừng phạt. Nhưng cuối cùng, các chính phủ sẽ tìm cách tự bảo vệ mình bằng cách liên kết với các quốc gia khác. Theo đó, danh sách đối thủ của Mỹ sẽ tăng lên. Các liên minh của nước này sẽ suy yếu. Nói cách khác, Washington có thể thấy mình ngày càng bị cô lập—và không có con đường rõ ràng nào để thiết lập lại danh tiếng.

Danh tiếng tốt

Các tổng thống Mỹ đã luôn lập luận rằng, để bảo vệ quyền lực của Mỹ, các cam kết của Washington cần phải đáng tin cậy. Ví dụ, Harry Truman quyết định can thiệp vào Bán đảo Triều Tiên để kiềm chế chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô. Ông giải thích sau đó: “Tôi nhớ rằng mỗi lần các nền dân chủ không hành động, điều đó lại khuyến khích những kẻ gây hấn tiếp tục tiến lên”. Lyndon Johnson leo thang chiến tranh ở Việt Nam phần lớn vì sợ rằng việc rút lui sẽ báo hiệu Washington không nghiêm túc trong việc kiềm chế chủ nghĩa cộng sản. George W. Bush biện minh cho việc tăng quân năm 2007 ở Iraq với lý do rút quân sẽ làm suy yếu uy tín của Mỹ; Barack Obama giữ lực lượng Mỹ ở nước này vì những lý do tương tự. Khi Tổng thống Obama do dự không thực hiện “lằn ranh đỏ” mà ông tự đặt ra về việc sử dụng vũ khí hóa học ở Syria, ông đã bị các nhà phê bình chỉ trích nặng nề vì cho rằng hành động này đã tiếp thêm sức mạnh cho kẻ thù của Mỹ. (Sau đó ông nói với một nhà báo rằng “thả bom vào ai đó để chứng minh rằng bạn sẵn sàng thả bom vào ai đó chỉ là lý do tồi tệ nhất để sử dụng vũ lực”). Sau màn rút quân thảm hại khỏi Afghanistan, Joe Biden cũng bị chỉ trích vì làm suy yếu danh tiếng của Washington về độ tin cậy, quyết tâm và năng lực.

Ảnh hưởng thực sự của các quyết định này đối với uy tín của Mỹ vẫn chưa rõ ràng. Mối quan hệ nhân quả giữa các quyết định của một quốc gia và cách những quyết định đó được nhìn nhận là phức tạp và mơ hồ. Ví dụ, nhà khoa học chính trị Daryl Press của Dartmouth đã lập luận rằng các quốc gia tìm kiếm lợi ích và khả năng hiện tại, chứ không phải hành vi trong quá khứ, để đánh giá quyết tâm. Các học giả khác, bao gồm Roseanne McManus, đã chỉ ra rằng danh tiếng về quyết tâm của các nhà lãnh đạo chỉ quan trọng trong những điều kiện nhất định trong các cuộc khủng hoảng. Và nghiên cứu mà tôi đã thực hiện với nhà khoa học chính trị Alex Weisiger cho thấy rằng các quốc gia đã từng nhượng bộ trong quá khứ có khả năng bị thách thức gấp đôi trong tương lai. Nghiên cứu khác của tôi chứng minh rằng uy tín được định hình bởi nhận thức về sự nhất quán và danh tiếng về quyết tâm, được xây dựng theo thời gian, nhiều như bởi các tín hiệu đắt giá mà các nhà lãnh đạo cố gắng gửi đi và cách chúng được đối thủ tiếp nhận. Nói cách khác, các nhà lãnh đạo hồi tưởng lại các tương tác trong quá khứ với đối thủ khi đánh giá ý định cũng như họ tính đến các hành động mà đối thủ đang thực hiện trong một cuộc khủng hoảng cụ thể.

Nhưng khi nói đến Trump, những phát hiện này gần như không còn ý nghĩa. Bất kể giới học thuật nói gì về những gì một chính phủ cần làm để thiết lập uy tín, Trump đang làm ngược lại. Tổng thống đã công khai nghi ngờ cam kết thiêng liêng nhất trong các đảm bảo phòng thủ của Mỹ—Điều 5 về phòng thủ tập thể của NATO—khi tuyên bố rằng nếu các đồng minh không “trả đủ tiền”, họ sẽ không được hưởng sự bảo vệ từ Mỹ. Ông đã rút Mỹ khỏi các thỏa thuận đa phương, chẳng hạn như hiệp định khí hậu Paris và thỏa thuận hạt nhân Iran, mà không quan tâm đến chi phí danh tiếng. Ông thậm chí còn nuốt lời về thỏa thuận thương mại Mỹ-Mexico-Canada (USMCA), mà ông đã đàm phán và ký kết trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình. Và ông đã liên tục thay đổi giữa việc chỉ trích và ca ngợi Tổng thống Nga Vladimir Putin—một trong những đối thủ kiên quyết nhất của Washington—mà không có bất kỳ yếu tố kích hoạt rõ ràng nào. Cuộc gặp gần đây của ông với Putin ở Alaska là một ví dụ điển hình. Cuộc gặp được tổ chức vội vàng và nhằm mục đích đánh bóng danh tiếng của Trump như một nhà kiến tạo thỏa thuận, nhưng ông không nhận được bất cứ điều gì cụ thể đổi lại từ người đồng cấp Nga. Hầu hết các nhà quan sát đều nói rằng tổng thống Mỹ đã bị chơi xỏ.

Trump có thể nhận thức được hành vi của mình đang gây tổn hại đối với uy tín của Mỹ như thế nào, hoặc những hậu quả đó có thể vượt khỏi tầm hiểu biết của ông. Nhưng dù bằng cách nào, chi phí danh tiếng đối với sự nhất quán và độ tin cậy rõ ràng không ảnh hưởng đến các quyết định của ông. Điều tổng thống muốn không phải là đáng tin cậy, mà là giành lợi thế tâm lý để đạt được các chiến thắng tức thời. Nếu điều đó đòi hỏi bỏ qua các cam kết lâu dài của Mỹ, thì ông cứ làm. Ông muốn sự linh hoạt tối đa: khả năng làm bất cứ điều gì ông muốn, bất cứ khi nào ông muốn, để đạt được mục đích của mình.

Tác nhân gây hỗn loạn

Sự khó đoán của Trump rõ ràng là có chủ ý. Tổng thống thích thú với việc gây ra hỗn loạn và hiểu rằng hành vi đe dọa của ông giúp đạt được những mục tiêu nhất định, chẳng hạn như các thỏa thuận thương mại của ông. “Chúng ta phải khó đoán”, Trump nói khi lần đầu tranh cử tổng thống vào năm 2016. “Tôi không muốn họ biết tôi đang nghĩ gì”.

Nhưng điều đó không có nghĩa là hành vi của tổng thống luôn gắn liền với một chiến lược. Thay vào đó, nó thường là hành động phát sinh từ những thay đổi tâm trạng —một phiên bản của cái mà học giả Todd Hall gọi là “ngoại giao cảm xúc”. Sợ hãi, tức giận, thất vọng và trả thù giờ đây là những động lực phổ biến của nghệ thuật điều hành đất nước của Mỹ. Đây là một thực tế mà nhiều quốc gia đã phải trải nghiệm một cách khó khăn và cay đắng. Ví dụ, trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, Trump đã ca ngợi thủ tướng Canada lúc bấy giờ, Justin Trudeau, và đạt được thỏa thuận thương mại với Ottawa. Trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, ông buộc tội quốc gia này không hành động đủ để kiềm chế dòng chảy fentanyl và các chất gây nghiện khác và sau đó đánh thuế Canada bằng một loạt thuế quan. Tương tự, Trump đã liên tục ca ngợi mối quan hệ nồng ấm của mình với Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi trong nhiệm kỳ đầu tiên, chỉ để quay lưng lại với New Delhi sau khi nước này phủ nhận việc Washington đã giúp ngăn chặn xung đột vào tháng Năm với Pakistan. Trong khi đó, mối quan hệ của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky với Trump dường như đã đi theo hướng ngược lại. Ban đầu, Zelensky đã làm Trump tức giận bằng cách sửa lưng ông trong một cuộc họp tại Nhà Trắng, khiến Washington tạm thời đình chỉ viện trợ cho Kyiv. Nhưng sau đó Zelensky đã làm hòa, và tháng trước, Trump tuyên bố rằng ông ủng hộ nỗ lực của Ukraine nhằm giành lại toàn bộ lãnh thổ từ Nga—điều mà trước đây ông tuyên bố là không thể đạt được .

Đối với các nhà lãnh đạo nước ngoài, việc theo kịp những thay đổi tâm trạng và ý thích bất chợt của Trump là gần như không thể. Nhưng có một vài chiến lược khác nhau mà họ có thể triển khai để cố gắng chiếm được lòng tổng thống, hoặc ít nhất là hạn chế sự tàn phá. Đầu tiên là sự tâng bốc – nuôi dưỡng hình ảnh tự đại của Trump. Kỹ thuật này đặc biệt phổ biến trong số các đối tác thân cận nhất của Washington. Ví dụ, ngoài Zelensky, Tổng thư ký NATO Mark Rutte đã gọi nhà lãnh đạo Mỹ là “nhà kiến tạo hòa bình thực dụng” sau cuộc gặp vào tháng Tám tại Nhà Trắng, gần như chắc chắn là một nỗ lực để ngăn tổng thống từ bỏ liên minh. Trong khi đó, Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đã ca ngợi “sự lãnh đạo quyết đoán” của Trump trong khi thành công thúc đẩy ông tham gia các cuộc không kích của Israel vào Iran. Nhưng ngay cả các quốc gia trung lập cũng tìm cách chiều theo sự kiêu ngạo của Trump. Ví dụ, Tham mưu trưởng Quân đội Pakistan, Asim Munir, đã đề cử Trump cho Giải Nobel Hòa bình trong một nỗ lực nhằm chia rẽ Mỹ khỏi Ấn Độ.

Tuy nhiên, sự tâng bốc nhanh chóng mất đi giá trị khi càng nhiều nhà lãnh đạo cùng sử dụng nó. Xét cho cùng, nếu mọi quốc gia đều tâng bốc Trump, thì không ai trong số họ giành được đòn bẩy. Và đối với các quốc gia đã trở nên tức giận vì bị bắt nạt, việc ca ngợi Trump đôi khi quá khó để chấp nhận. Kết quả là, một số chính phủ đã áp dụng cách tiếp cận ngược lại—đối đầu. Ví dụ, Tổng thống Brazil Luiz Inácio Lula da Silva đã đáp lại bằng sự thách thức khi Trump áp dụng thuế quan cao đối với quốc gia của ông và trừng phạt các thẩm phán của nước này vì đã kết án cựu Tổng thống Jair Bolsonaro về âm mưu đánh cắp cuộc bầu cử. Modi cũng đã có một đường lối hung hăng đối với Trump. Nhưng mặc dù những biện pháp này có thể giúp cải thiện danh tiếng tiếng của các nhà lãnh đạo trong nước, chúng hiếm khi khiến Trump lùi bước, điều này sau đó có thể gây ra phản ứng dữ dội trong nước. Tổng thống Thụy Sĩ Karin Keller-Sutter đã có một cuộc gọi điện thoại đối đầu với Trump sau khi Washington đánh thuế quan lớn vào nước bà, nhưng khi Trump không nhượng bộ, bà đã bị các đối thủ trong nước buộc tội xử lý quan hệ đối ngoại kém hiệu quả.

Có một cách tiếp cận ở giữa sự tâng bốc và đối đầu: phòng bị nước đôi (hedging). Cách tiếp cận này đòi hỏi các quốc gia phải linh hoạt, sẵn sàng xây dựng quan hệ thân thiết với nhiều cường quốc lớn, kể cả một số đối thủ của Mỹ. Ví dụ, nhiều quốc gia Mỹ Latinh đang giao dịch và hợp tác nhiều hơn với châu Á và châu Âu sau cuộc bầu cử của Trump trong khi vẫn làm việc với Washington. Các chế độ quân chủ vùng Vịnh tâng bốc Trump ngay cả khi họ tăng cường quan hệ với Trung Quốc. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã thúc giục châu Âu theo đuổi một lộ trình “tự chủ chiến lược” nhằm giảm sự phụ thuộc của đất nước ông và lục địa này vào cả Trung Quốc và Mỹ.

Những cách tiếp cận này không loại trừ lẫn nhau. Vì không chắc chắn về cách đối phó với tính khí thất thường của Trump, nên phần lớn các quốc gia trên thế giới đã phải chọn cách lúc thì tâng bốc, lúc thì đối đầu, và lúc thì tìm cách phòng bị nước đôi. Nhưng cuối cùng, không có chiến thuật nào trong số này mang lại nhiều hơn những thành công tạm thời. Trump tiếp tục thay đổi cách tiếp cận của mình với thế giới gần như từng phút, tùy thuộc vào cảm xúc của ông.

Cái giá phải trả

Công bằng mà nói, Trump giành được một số thành tựu đáng kể nhờ sự khó đoán. Ví dụ, hãy xem xét vụ đánh bom Iran, đã làm chậm lại tham vọng hạt nhân của nước này. Khi được hỏi liệu ông có tấn công Iran sau khi Israel bắt đầu chiến dịch đánh bom hay không, ông đã cố tình nói nước đôi. Ông nói: “Tôi có thể làm, tôi có thể không làm. Ý tôi là, không ai biết tôi sẽ làm gì”. Điều này dẫn đến sự không chắc chắn ở cả Israel và Iran về việc họ nên hành động hay phản ứng như thế nào. Quyết định cuối cùng can thiệp quân sự của ông được thúc đẩy bởi mong muốn loại bỏ nhận thức rằng ông yếu đuối và nhượng bộ khi bị đối đầu, cũng như bởi sự thôi thúc muốn được coi là người chiến thắng. Bằng cách thể hiện cho các quốc gia khác thấy sự sẵn lòng thay đổi nhanh chóng và quay lưng lại với họ, Trump có thể đã tăng cường khả năng răn đe của Mỹ.

Cách ông xử lý ngân sách quốc phòng đồng minh cũng có thể được coi là một chiến thắng. Trong nhiều thập kỷ, các nhà lãnh đạo Mỹ đã thúc đẩy các nước còn lại của NATO tăng chi tiêu quân sự nhưng không bao giờ thách thức Điều 5. Do đó, các quốc gia châu Âu cảm thấy tương đối ít áp lực phải hành động. Tuy nhiên, bằng cách gieo nghi ngờ về phòng thủ tập thể, Trump đã có thể tạo ra sự khẩn cấp, và tại hội nghị thượng đỉnh Hague năm 2025, các đồng minh châu Âu đã cam kết tăng chi tiêu quốc phòng lên mức đáng kinh ngạc năm phần trăm GDP. Cuộc đối đầu thuế quan Mỹ-Âu diễn ra theo một kịch bản tương tự. Dưới sự đe dọa leo thang thuế quan, Brussels đã đưa ra các nhượng bộ thương mại cho Washington vào mùa hè năm ngoái mà trước đây được coi là không thể tưởng tượng được, bao gồm một thỏa thuận mua 750 tỷ USD năng lượng của Mỹ. Đáp lại, Trump tuyên bố chiến thắng. Trong khi đó, Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen đã ca ngợi “sự lãnh đạo quyết đoán” của ông.

Nhưng không rõ những chiến thắng này sẽ kéo dài đến mức nào. Ví dụ, Trump có thể đã dụ dỗ châu Âu chi tiêu quốc phòng nhiều hơn, nhưng với cái giá là làm cho NATO mong manh hơn. Mặc dù các thành viên NATO đang chi tiêu nhiều hơn cho an ninh của chính họ, sức mạnh của liên minh chủ yếu dựa vào các đảm bảo phòng thủ tập thể, điều mà Trump hiện đã làm suy yếu. Rốt cuộc, nếu bản thân Mỹ hùng mạnh không phản ứng quân sự khi một đồng minh NATO bị tấn công, thì liên minh sẽ yếu hơn ngay cả khi các quốc gia châu Âu tăng ngân sách quốc phòng. Trường hợp thuế quan mà Trump áp đặt lên châu Âu cũng tương tự: dù Washington có thể đã vòi được những nhượng bộ kinh tế, nhưng đổi lại, châu Âu đang tăng cường quyền tự chủ về kinh tế và chính trị của chính mình. Kết quả là, Mỹ sẽ sớm có ít ảnh hưởng hơn với lục địa này. Trên thực tế, họ sẽ có ít ảnh hưởng hơn trên toàn thế giới. Khi uy tín của Mỹ suy giảm, việc Washington đàm phán hoặc tạo điều kiện cho các thỏa thuận hòa bình—như họ thường làm—có thể trở nên khó khăn hơn, điều này sẽ dẫn đến một hệ thống quốc tế bất ổn hơn

Nhiều chính trị gia Mỹ, bao gồm một số đảng viên Cộng hòa, đã cảnh báo về những hậu quả lâu dài của các quyết định toàn cầu hỗn loạn của Trump. Ngay cả khi ông được kế nhiệm bởi một đồng minh chính trị thân cận, tổng thống Mỹ tiếp theo có thể cố gắng hành động theo một cách dễ đoán hơn (đặc biệt nếu họ ôn hòa). Nhưng việc thiết lập lại uy tín của Mỹ sẽ nói dễ hơn làm. Danh tiếng của một quốc gia không chỉ gắn với nhà lãnh đạo hiện tại của nó: khi Trump liên tục thất hứa hoặc đột ngột thay đổi hướng đi, điều đó làm sâu sắc thêm sự hoài nghi không chỉ về ông mà còn về độ tin cậy của các thể chế Mỹ nói chung. Và một lần bất tín, vạn lần bất tin. Tổng thống Mỹ tiếp theo, bất kể cách tiếp cận của họ là gì, sẽ thừa hưởng các đồng minh tâng bốc nhưng cũng phòng ngừa rủi ro, các đối thủ thử thách và chờ đợi, và một hệ thống trong đó lời nói của Mỹ đơn giản là có ít trọng lượng hơn so với trước đây.

Nói cách khác, Washington sẽ có ít đồng minh thân thiết hơn. Đối với nhiều đối tác của Mỹ, phòng ngừa rủi ro sẽ trở thành một điều cần thiết khi sự tâng bốc mất đi tác dụng và sự đối đầu trực tiếp trở nên quá tốn kém. Trong khi đó, Washington có thể có thêm các đối thủ mới, vì các quốc gia bị Trump ghẻ lạnh tìm kiếm quan hệ đối tác quốc phòng với các đối thủ cạnh tranh của Mỹ. Khả năng răn đe sẽ trở nên tốn kém hơn, vì các quan chức Mỹ phải đối phó với một số lượng mối đe dọa ngày càng tăng. Và Washington sẽ phải chi tiêu nhiều hơn để trấn an các đồng minh mà họ vẫn còn.

Mỹ có thể thấy mình ít có đồng minh thân cận hơn ngay cả khi không có Trump, khi hệ thống quốc tế ngày càng trở nên đa cực. Nhưng sự khó đoán của tổng thống hiện tại có khả năng đang thúc đẩy quá trình này. Trump có thể rời nhiệm sở với niềm tin rằng sự khó đoán của ông đã làm cho Washington mạnh mẽ hơn và người Mỹ sẽ được hưởng lợi từ trật tự quyền lực và các thỏa thuận giao dịch sau đó. Ông có thể nghĩ rằng, bằng cách từ chối nhu cầu về uy tín, ông đã giải phóng Mỹ khỏi những ràng buộc đã trói buộc các tổng thống trước đây. Nhưng lịch sử có khả năng sẽ cho thấy điều ngược lại: rằng Trump đã thay thế uy tín bằng sự biến động, để lại một Mỹ không còn đáng tin nữa.

KEREN YARHI-MILO là Hiệu trường Trường các Vấn đề Công Quốc tế của Đại học Columbia.