
Nguồn: Arif Husain, “A Hidden Hunger Crisis Is Destabilizing the World,” Foreign Affairs, 11/11/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Mất an ninh lương thực gây ra bạo lực – và làm suy yếu cả các quốc gia giàu có như thế nào?
Nhìn chung, thế giới của chúng ta chưa bao giờ giàu có hơn, tiên tiến hơn về công nghệ, hay có khả năng tự nuôi sống mình hơn. Hồi cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, nhiều nhà phân tích từng lo ngại rằng thế giới có thể cạn kiệt lương thực. Tốc độ tăng trưởng dân số, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, vượt xa tốc độ tăng trưởng năng lực nông nghiệp, và các báo cáo của Liên Hiệp Quốc và Ngân hàng Thế giới đều cho rằng nếu không có những thay đổi mạnh mẽ, thế giới sẽ rơi vào tình trạng thiếu hụt thảm khốc. Nhưng cái gọi là Cách mạng Xanh đã sớm giúp tăng năng suất nông nghiệp lên gấp nhiều lần, đảm bảo các làn sóng cải tiến và đổi mới liên tiếp trong kỹ thuật canh tác. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) và Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc ước tính rằng, nếu chất thải được giảm thiểu, các quốc gia trên thế giới hiện có thể sản xuất đủ lương thực để nuôi sống gần mười tỷ người, nhiều hơn hai tỷ người so với dân số hiện tại của hành tinh.
Tuy nhiên, thành tựu to lớn này lại dẫn đến sự tự mãn – và che giấu một cuộc khủng hoảng nạn đói mới. Ngày nay, nạn đói không phải do sự khan hiếm, mà do những rào cản tiếp cận lương thực trong một thế giới nơi sự dư thừa tồn tại song song với sự thiếu thốn khủng khiếp. Theo báo cáo Tình trạng An ninh Lương thực và Dinh dưỡng trên Thế giới năm 2025 do FAO tổng hợp, có tới 720 triệu người đang bị mất an ninh lương thực thường xuyên. 43 triệu trẻ em bị gầy yếu (wasting), dạng suy dinh dưỡng nghiêm trọng nhất, và 152 triệu trẻ bị thấp còi (stunted growth), do hậu quả của tình trạng thiếu hụt dinh dưỡng và nhiễm trùng lặp đi lặp lại. Những vấn đề này có thể làm giảm khả năng nhận thức và thể chất của trẻ khi trưởng thành. Báo cáo Triển vọng Toàn cầu năm 2025 của Chương trình Lương thực Thế giới của Liên Hiệp Quốc (WFP) dự kiến 319 triệu người sẽ phải đối mặt với nạn đói cấp tính, tăng hơn 130% so với mức trước năm 2020, và có hai nạn đói đang diễn ra đồng thời, ở Gaza và ở Sudan.
Vào thời điểm chiến tranh, thảm họa môi trường, và khó khăn kinh tế khiến ngày càng nhiều người lâm vào cảnh đói kém, nhiều quốc gia tài trợ lại đang rút lui khỏi việc tài trợ cho các chương trình cung cấp lương thực cứu sống và thay đổi cuộc sống của nhiều người. Ví dụ, một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Lancet vào tháng 07/2025 dự đoán rằng việc chính quyền Trump đóng cửa Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) sẽ dẫn đến 14 triệu ca tử vong sớm trong vòng 5 năm tới, nhiều trong số đó là do đói. Khi ngừng viện trợ, các quốc gia tài trợ đang phớt lờ một sự thật không thể tránh khỏi: mất an ninh lương thực ở một nơi sẽ dẫn đến bất ổn ở những nơi khác. Nếu các quốc gia giàu có không hành động để giải quyết nạn đói ngày càng gia tăng ngay bây giờ, hậu quả có thể lan rộng như thảm họa được dự đoán cách đây nửa thế kỷ – chỉ có điều cuộc khủng hoảng ngày nay hoàn toàn nằm trong khả năng ngăn chặn của thế giới.
CÁC CHUỖI THỰC PHẨM
Những nạn đói lớn của thế kỷ 20 thường do hạn hán gây ra. Còn ngày nay, nguyên nhân khiến người dân đói kém thường mang tính cấu trúc, liên quan đến xung đột bạo lực, biến đổi khí hậu dai dẳng, và việc bị gạt ra bên lề về mặt kinh tế. Theo Chương trình Dữ liệu Xung đột Uppsala, số lượng xung đột đang diễn ra trên toàn thế giới đã tăng từ 46 vào năm 2014 lên 61 vào năm 2024. Và tỷ lệ xung đột đang diễn ra được giải quyết trong một năm nhất định đã đạt mức thấp nhất trong vòng nửa thế kỷ qua. Xung đột bạo lực luôn làm gia tăng tình trạng mất an ninh lương thực, và gần 70% số người hiện đang phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực nghiêm trọng sống ở các quốc gia đang có xung đột. Chỉ riêng ở Gaza và Sudan, chiến tranh đã đẩy một triệu người vào nạn đói.
Biến đổi khí hậu cũng đang đẩy nhanh nạn đói. Trung tâm Nghiên cứu Dịch tễ học về Thảm họa tại Đại học Louvain phát hiện ra rằng, từ năm 1985 đến năm 2004, thế giới đã trải qua trung bình 231 thảm họa thiên nhiên liên quan đến biến đổi khí hậu hàng năm. Nhưng kể từ năm 2005, con số đó đã tăng vọt lên gần 343, tăng khoảng 50%. Chỉ riêng trong năm 2024, EM-DAT, cơ sở dữ liệu thảm họa quốc tế hàng đầu, đã ghi nhận 371 thảm họa thiên nhiên (bao gồm hạn hán, lũ lụt, và bão) khiến 45 triệu người phải di dời. Năm nay, Bão Melissa đã khiến 3,1 triệu người ở vùng Caribbean cần được hỗ trợ lương thực khẩn cấp và 6,3 triệu người ở Pakistan bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. Trong khi đó, tại Dải Sahel, hạn hán thường xuyên đang làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo đói và di dời, tạo ra nhiều điểm yếu mà các nhóm cực đoan đã lợi dụng.
Sự mong manh của nền kinh tế thế giới chỉ làm khủng hoảng thêm tồi tệ. Khoảng một nửa số quốc gia có thu nhập thấp đang hoặc sắp rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất, theo đó càng khiến tình trạng mất an ninh lương thực thêm trầm trọng. Mức nợ cao buộc các chính phủ phải ưu tiên trả nợ hơn là chi tiêu thiết yếu, làm giảm nguồn tài trợ cho nhập khẩu lương thực và mạng lưới an sinh xã hội, cũng như các khoản đầu tư cần thiết vào cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn. Ngày nay, hơn ba tỷ người đang sống ở các quốc gia chi nhiều tiền cho việc trả lãi nợ hơn là cho y tế hoặc giáo dục. Do nợ tăng, đồng tiền mất giá, và chi phí sản xuất tăng, giá lương thực đã tăng 50% ở 61 quốc gia và hơn 100% ở 37 quốc gia chỉ trong 5 năm qua. Sự trở lại của chủ nghĩa bảo hộ thương mại cũng đang bóp nghẹt nguồn thu mà các quốc gia nghèo hơn dựa vào để tài trợ cho lương thực và các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu khác.
ĐẤU TRƯỜNG SINH TỬ
Các thể chế được xây dựng để ngăn chặn những đau khổ như vậy đang chịu áp lực nặng nề từ các cuộc cạnh tranh địa chính trị, sự xói mòn niềm tin, và ý chí chính trị suy yếu. Sau 5 năm tăng trưởng ổn định, tổng viện trợ quốc tế đã giảm 9% vào năm 2024. Dự báo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho thấy con số này sẽ giảm thêm từ 9 đến 17% vào năm 2025. Hậu quả của những khoản cắt giảm này đặc biệt nghiêm trọng đối với những người dân cần được hỗ trợ lương thực. Theo Mạng lưới Toàn cầu Chống Khủng hoảng Lương thực, một tổ chức hợp tác giữa các quốc gia tài trợ và các tổ chức nhân đạo và phát triển, tổng ngân sách viện trợ lương thực toàn cầu có lẽ giảm tới 45% trong giai đoạn từ năm 2024 đến nay.
Năm 2024, WFP đã hỗ trợ 124 triệu người trên toàn thế giới. Tuy nhiên, WFP dự kiến số người được hỗ trợ sẽ giảm 21% vào năm 2025 do các nhà tài trợ lớn cắt giảm mạnh ngân sách. Đóng góp của chính phủ Mỹ cho chương trình đã giảm 55% kể từ năm 2024, trong khi hỗ trợ từ Pháp, Đức, và Anh cũng giảm tương tự. Một số chiến dịch thực địa đã buộc phải cắt giảm khẩu phần ăn hàng ngày xuống dưới 300 calo, nghĩa là chưa bằng một bữa ăn nhỏ. 16 triệu người đang đứng trước nguy cơ mất toàn bộ hỗ trợ lương thực trong lúc nạn đói toàn cầu ngày càng trầm trọng.
Các tổ chức cứu trợ cũng đang đối mặt với khó khăn chất chồng trong việc tiếp cận những nhóm dân cư bị ảnh hưởng. Theo Cơ sở dữ liệu An ninh Nhân viên Cứu trợ, 383 nhân viên cứu trợ đã thiệt mạng vào năm 2024, cao hơn gấp đôi con số trung bình của ba năm trước đó, cho thấy rằng các bên tham chiến đang ngày càng coi thường luật nhân đạo quốc tế.
Việc cắt giảm ngân sách nhân đạo báo hiệu sự suy yếu của tình đoàn kết toàn cầu với những người yếu thế. Nhưng nó cũng đặt ra một vấn đề thực sự ngay cả với những cộng đồng được cho là ổn định và giàu có. Chính trong thời điểm bất ổn, hành động tập thể mới là điều quan trọng nhất, bởi ngay khi viện trợ nhân đạo bị cắt giảm, thì khủng hoảng sẽ lan rộng.
Mất an ninh lương thực sẽ dẫn đến di cư. Một nghiên cứu năm 2017 của WFP cho thấy: mỗi khi tỷ lệ thiếu lương thực tăng thêm 1%, thì số người tị nạn rời khỏi quê hương tăng trung bình 1,9%. Nghiên cứu này cũng cho thấy cứ mỗi năm xung đột bạo lực kéo dài thêm – và xung đột bạo lực gây mất an ninh lương thực – thì số người tị nạn di cư do xung đột đó gây ra lại tăng gần 0,4%.
Người tị nạn buộc phải di chuyển trước tiên là đến các nước láng giềng, thường không được trang bị đầy đủ để tiếp nhận họ. Và khi những nước láng giềng này không thể xử lý được dòng người đổ vào, người tị nạn sẽ bắt đầu hướng tới những điểm đến xa hơn. Do đó, đối với các nước giàu có, việc phớt lờ tình trạng mất an ninh lương thực ở nước ngoài là phi lý về mặt kinh tế. Năm 2024, các quốc gia OECD đã chi 24,2 tỷ đô la cho viện trợ nhân đạo, tiếp cận khoảng 198 triệu người, tương đương khoảng 120 đô la/người. Tuy nhiên, cũng chính những quốc gia này đã chi 27,8 tỷ đô la, tương đương 9.200 đô la/người, để hỗ trợ chỉ ba triệu người tị nạn và người xin tị nạn trong biên giới của họ. Nuôi sống một gia đình ở nơi họ sinh sống rẻ hơn nhiều so với việc hỗ trợ họ trong tư cách là người tị nạn khi nạn đói buộc họ phải chạy trốn. Việc không hành động ngay tại địa phương sẽ khiến ta phải trả giá cao hơn sau này. Và điều đó cũng dẫn đến phản ứng chính trị dữ dội. Những dòng người di cư lớn thường làm mất ổn định chính trị trong nước của một quốc gia, thúc đẩy sự phân cực và chủ nghĩa cực đoan.
Nạn đói cũng gây ra bất ổn địa chính trị. An ninh lương thực làm suy yếu tính chính danh của các quốc gia bị ảnh hưởng, thúc đẩy cạnh tranh giành nguồn tài nguyên khan hiếm và làm giảm chi phí cơ hội của bạo lực. Các nhóm cực đoan sẽ lợi dụng sự tuyệt vọng, sử dụng lương thực như một công cụ chiêu mộ và nạn đói như một vũ khí gây ảnh hưởng. Quan hệ giữa nạn đói và xung đột là một vòng tròn; cái này nuôi dưỡng cái kia.
TỪ ĐÓI KHÁT ĐẾN DƯ THỪA
Việc phá vỡ vòng luẩn quẩn này đòi hỏi tầm nhìn kinh tế và lòng dũng cảm chính trị. Thách thức không nằm ở kỹ thuật: thế giới biết cách trồng trọt và cung cấp lương thực. Vấn đề nằm ở chính trị và tài chính. Chúng ta cần biến an ninh lương thực thành ưu tiên chung, chứ không phải nghĩa vụ tồn đọng.
Các chính phủ, các tổ chức đa phương, các tổ chức từ thiện, và các nhà tài trợ tư nhân phải khẩn trương khôi phục và mở rộng nguồn tài trợ có thể dự đoán được, kéo dài nhiều năm cho các chương trình nhân đạo và phát triển. Tài trợ cho các chương trình cứu người là điều cần thiết, nhưng hỗ trợ cho các sáng kiến xây dựng khả năng phục hồi và cho phép người dân thoát khỏi bẫy đói cũng quan trọng không kém. Liên tục can thiệp để cứu sống cùng một nhóm người mà không giải quyết nguyên nhân gốc rễ của nạn đói là không hiệu quả về mặt chi phí. Các chương trình này phải được tài trợ thường xuyên ngay cả trong thời kỳ suy thoái tài chính để tránh các chu kỳ bất ổn hàng năm làm gián đoạn các chiến dịch thực địa. Do nạn đói và tình trạng khan hiếm tài nguyên thường thúc đẩy xung đột bạo lực và di cư, NATO, Liên Hiệp Quốc, Liên minh Châu Phi, Liên minh Châu Âu, và G-7 phải đưa an ninh lương thực trở thành trụ cột cốt lõi trong khuôn khổ chiến lược của họ.
Các hệ thống giám sát an ninh lương thực như FAO của Liên Hiệp Quốc, Hệ thống Cảnh báo Sớm Nạn đói của chính phủ Mỹ, và WFP phải được tài trợ đầy đủ để đảm bảo viện trợ đến đúng nhóm dân cư vào đúng thời điểm. Việc thu thập dữ liệu của các tổ chức này giúp các nhóm cứu trợ ưu tiên hỗ trợ các quốc gia đang phải đối mặt với xung đột, biến đổi khí hậu, và suy thoái kinh tế – những nơi mà việc không hành động gây ra tổn thất lớn nhất về người và địa chính trị. Tuy nhiên, việc thiếu kinh phí đã và đang gây ra sự chậm trễ trong việc thực hiện các phân tích quan trọng.
Việc truy cứu trách nhiệm những kẻ vi phạm luật pháp quốc tế là một yếu tố then chốt, dù đôi khi bị bỏ qua, của an ninh lương thực. Nó không chỉ mang lại công lý cho các nạn nhân, mà còn ngăn chặn các hành vi vi phạm trong tương lai. Các biện pháp truy tố trong hệ thống tư pháp quốc tế và trong từng quốc gia, các biện pháp trừng phạt có mục tiêu, đóng băng tài sản, cấm đi lại, và các biện pháp trừng phạt khác nên được áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức, hoặc quốc gia chịu trách nhiệm cho các hành vi vi phạm nghiêm trọng.
Các nhóm tài trợ khác nhau cũng cần tăng cường phối hợp với nhau. Các dòng tài trợ rất hay bị phân mảnh, và nhiệm vụ chồng chéo dẫn đến sự trùng lặp hỗ trợ ở một số lĩnh vực và những khoảng trống nghiêm trọng ở những lĩnh vực khác. Các chính phủ, các cơ quan chung của Liên Hiệp Quốc, và các tổ chức phi chính phủ nên tiến hành đánh giá chung về an ninh lương thực và mức độ dễ bị tổn thương, cung cấp quyền truy cập chung vào hệ thống dữ liệu của họ, và đảm bảo giao tiếp minh bạch để phân công lao động mang tính chiến lược hơn. FAO và WFP nên dẫn đầu nỗ lực phối hợp này, cùng với các cơ quan quốc gia có năng lực. Các nhóm viện trợ nhân đạo như UNICEF và WFP, các tổ chức phát triển như Ngân hàng Thế giới, và các tổ chức xây dựng hòa bình như Interpeace đều có chung lợi ích trong việc thúc đẩy an ninh lương thực và đảm bảo rằng hỗ trợ khẩn cấp, các chương trình phục hồi, và các nỗ lực phục hồi lâu dài mang tính bổ sung cho nhau thay vì cạnh tranh. Và các nhà tài trợ phải nỗ lực hơn nữa để điều chỉnh các ưu tiên và thời hạn tài trợ của họ cho phù hợp với các kế hoạch ứng phó của địa phương và quốc gia.
Để giảm bớt áp lực lên các quốc gia thu nhập thấp đang hoặc sắp lâm vào cảnh nợ nần, các chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế nên đề xuất xóa nợ để đổi lấy việc xóa đói. Việc xóa nợ có thể giải phóng các nguồn lực đang được dành cho việc trả nợ. Nguyên tắc này là nền tảng cho các sáng kiến như phương pháp hoán đổi nợ của WFP đối với an ninh lương thực, vốn đã được triển khai tại Ai Cập và Mozambique.
Cuối cùng, các nước thu nhập cao nên xóa bỏ hoặc tạm dừng thuế quan và các rào cản khác đối với hàng nhập khẩu từ các nền kinh tế có an ninh lương thực mong manh. Các nước xuất khẩu cũng phải tránh các lệnh cấm xuất khẩu lương thực gây bất ổn thị trường và đẩy giá lên cao. Để chống lại tác động của biến đổi khí hậu đối với an ninh lương thực, các chính phủ phải tăng cường tài trợ cho các chương trình đầu tư vào nông nghiệp chống chịu hạn hán, quản lý lũ lụt, và bảo hiểm cho nông dân sản xuất nhỏ. Việc đầu tư vào các cơ chế cảnh báo sớm sử dụng công nghệ mới để dự đoán thiên tai cũng quan trọng không kém.
HY SINH KHOẢN NHỎ ĐỂ GIỮ LỢI LỚN
Dù các chính phủ giàu có đã cắt giảm viện trợ nước ngoài, nhưng nhiều nước vẫn khẳng định họ cam kết chấm dứt xung đột bạo lực ở những nơi như Ukraine và Trung Đông. Tuy nhiên, điều còn thiếu trong phương trình này là sự thừa nhận rằng an ninh lương thực là nền tảng cho hòa bình. Những nỗ lực đàm phán ngừng bắn và thỏa thuận hòa bình phải bao gồm các điều khoản đảm bảo rằng các tổ chức viện trợ có thể cung cấp hỗ trợ và hệ thống lương thực có thể phục hồi.
Nếu không đảm bảo nhân viên cứu trợ có thể tiếp cận an toàn với những người dân bị ảnh hưởng, thì dù có bao nhiêu tiền cũng không thể ngăn chặn nạn đói. Các tác nhân bên ngoài – bao gồm các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế – có thể giúp nhân viên cứu trợ tiếp cận người dân ở những khu vực bất ổn bằng cách tạo điều kiện đàm phán với chính quyền địa phương và các nhóm vũ trang, cung cấp đào tạo an ninh, và hỗ trợ quản lý rủi ro, cũng như gây áp lực ngoại giao. Họ cũng cần tập trung nhiều nguồn lực hơn vào việc giám sát từ xa, cung cấp viện trợ kỹ thuật số, và thiết lập mạng lưới các đối tác địa phương có thể hoạt động an toàn trên thực địa.
Mỗi đô la chi cho việc ngăn chặn nạn đói cùng cực sẽ giúp chúng ta tiết kiệm được rất nhiều tiền cần chi để ứng phó với khủng hoảng. Nạn đói dai dẳng không phải là điều tất yếu. Đó là một lựa chọn chính sách. Đảo ngược tình trạng này không chỉ là nghĩa vụ đạo đức, mà còn là một nhu cầu chiến lược.
Arif Husain là Nhà kinh tế trưởng của Chương trình Lương thực Thế giới của Liên Hiệp Quốc.
