
Nguồn: Moritz S. Graefrath và Mark A. Raymond, “America’s Allies Should Go Nuclear,” Foreign Affairs, 19/11/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc sẽ củng cố trật tự toàn cầu, chứ không phải chấm dứt nó.
Có lẽ ít có kịch bản nào khiến các chuyên gia và nhà hoạch định chính sách lo ngại bằng viễn cảnh phổ biến vũ khí hạt nhân. Việc Nga sẵn sàng đe dọa triển khai vũ khí hạt nhân chiến thuật trong cuộc chiến chống lại Ukraine, mối quan tâm mơ hồ của Tổng thống Mỹ Donald Trump đối với việc thử nghiệm hạt nhân, và việc Hiệp ước Cắt giảm Vũ khí Chiến lược Mới (START, nhằm hạn chế quy mô kho vũ khí hạt nhân của Nga và Mỹ) năm 2010 sắp hết hạn đã nhắc nhở thế giới về tiềm năng hủy diệt lâu dài của vũ khí hạt nhân và làm dấy lên nỗi sợ đối với việc sử dụng chúng. Các nhà lãnh đạo Mỹ tin rằng việc phổ biến vũ khí hạt nhân sẽ gây tổn hại sâu sắc đến lợi ích chiến lược của nước này và làm mất ổn định hơn nữa trật tự toàn cầu vốn đã mong manh. Trong những tháng gần đây, họ đã đẩy mạnh cam kết ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, và các cuộc không kích vào các địa điểm hạt nhân ở Iran vào tháng 6 cho thấy Washington sẽ sử dụng vũ lực để ngăn chặn nhiều quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân hơn nữa.
Suốt hàng thập kỷ, Mỹ đã đầu tư vào một trật tự hạt nhân được xây dựng xoay quanh việc không phổ biến vũ khí, ngay cả khi các thỏa thuận giải trừ quân bị thời Chiến tranh Lạnh như Hiệp ước Chống Tên lửa Đạn đạo hết hạn. Việc phản đối phổ biến vũ khí hạt nhân ở các quốc gia và đối thủ không đáng tin cậy là hợp lý, nhưng phản đối phổ biến vũ khí một cách toàn diện sẽ che khuất những lợi ích đáng kể mà nó có thể mang lại. Sẽ tốt hơn nếu Mỹ xem xét lại việc tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu không phổ biến vũ khí hạt nhân và khuyến khích một nhóm nhỏ các đồng minh – cụ thể là Canada, Đức, và Nhật Bản – sở hữu vũ khí. Đối với Washington, việc phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc sẽ cho phép các đối tác này đảm nhận vai trò lớn hơn trong phòng thủ khu vực và giảm sự phụ thuộc quân sự của họ vào Mỹ. Về phần các đồng minh, việc sở hữu vũ khí hạt nhân mang lại sự bảo vệ đáng tin cậy nhất chống lại mối đe dọa từ các kẻ thù trong khu vực, như Trung Quốc và Nga, đồng thời giúp phòng vệ tốt hơn khi Mỹ ngày càng ít cam kết với các liên minh truyền thống.
Những người hoài nghi và bi quan về hạt nhân có thể e ngại ý tưởng về một thế giới với nhiều cường quốc sở hữu vũ khí hạt nhân hơn, nhưng những quan ngại này sẽ ít có cơ sở hơn khi việc phổ biến vũ khí hạt nhân được theo đuổi một cách có chọn lọc. Canada, Đức, và Nhật Bản đã chứng minh được thành tích hoạch định chính sách hợp lý và ổn định nội bộ, nghĩa là các tai nạn hạt nhân và các vòng xoáy leo thang không kiểm soát đều khó xảy ra. Và, nếu được quản lý cẩn thận, thì có nhiều lý do để tin rằng việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở những quốc gia này sẽ không dẫn đến những nỗ lực sâu rộng hơn ở các nước khác nhằm phát triển bom hạt nhân của riêng họ.
Thay vì mở ra một kỷ nguyên bất ổn toàn cầu mới đáng sợ, phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc sẽ giúp duy trì trật tự hậu Thế chiến II. Nếu Canada, Đức, và Nhật Bản sở hữu vũ khí hạt nhân, họ sẽ tái cân bằng năng lực quân sự toàn cầu theo hướng có lợi cho một liên minh các quốc gia cam kết tuân thủ hệ thống dựa trên luật lệ và ngăn chặn sự xói mòn các chuẩn mực cốt lõi của hệ thống này, đặc biệt là toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc giúp khôi phục lại trật tự hậu năm 1945 đang gặp nguy hiểm, thứ đã mang lại lợi ích to lớn cho Mỹ và các đồng minh.
ĐÔI BÊN CÙNG CÓ LỢI
Các quan chức cấp cao của Mỹ đã nhiều lần nhấn mạnh sự cần thiết phải chuyển gánh nặng phòng thủ lục địa sang cho các đồng minh châu Âu và giảm bớt sự phụ thuộc quân sự của họ vào Mỹ. Đối mặt với thách thức địa chính trị từ một Trung Quốc đang trỗi dậy ở Đông Á và đang cần có nguồn lực để giải quyết các vấn đề trong nước, Washington đã xem việc chấm dứt tình trạng châu Âu “ăn không ngồi rồi” là ưu tiên chiến lược hàng đầu. Điều cản trở khả năng tự đảm bảo an ninh của châu Âu ngày nay – và theo đó ngăn cản sự rút lui mạnh mẽ của Mỹ – chính là sự thiếu hụt lực lượng hạt nhân của Đức. Xuyên suốt Chiến tranh Lạnh, các nhà lãnh đạo Mỹ từng hy vọng rút quân đội khỏi châu Âu, nhưng họ cho rằng nếu Đức không có được năng lực răn đe hạt nhân, thì lục địa già sẽ không thể tự đảm bảo an ninh của mình. Như nhà sử học Marc Trachtenberg lưu ý, Mỹ đã đúng khi nhận định rằng lực lượng hạt nhân của Anh và Pháp “không thể mang lại mức độ đảm bảo cần thiết” để châu Âu có thể răn đe Liên Xô và kho vũ khí hạt nhân khổng lồ của nước này. Ngày nay, rào cản tương tự vẫn còn đó. Việc khuyến khích Đức phát triển vũ khí hạt nhân của riêng mình cuối cùng sẽ tạo ra một châu Âu tự cung tự cấp, cho phép Mỹ rút lui.
Các nhà lãnh đạo và công chúng Đức thừa nhận rằng sự phụ thuộc về quân sự vào Mỹ khiến đất nước họ dễ bị tổn thương trước những ý thích bất chợt của Washington. Ngay sau khi đắc cử vào tháng 02/2025, Thủ tướng Friedrich Merz tuyên bố rằng đã đến lúc “đạt được độc lập” khỏi Mỹ, và kể từ đó tới nay, ông trở thành người ủng hộ mạnh mẽ việc tái vũ trang đáng kể. Nhưng cần nhiều thời gian để xây dựng năng lực quân sự thông thường của Đức, và Berlin vẫn thiếu một tầm nhìn rõ ràng về cách thức đạt được mục tiêu chi tiêu quốc phòng đầy tham vọng là 5% GDP mà Merz và các nhà lãnh đạo châu Âu khác đã đồng ý tại hội nghị thượng đỉnh NATO hồi tháng 6. Các cam kết hiện tại của Đức đối với việc cung cấp vật tư chiến tranh cho Ukraine và sự miễn cưỡng của người dân trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự đang cản trở việc tăng cường sức mạnh quân sự thông thường nhanh chóng. Việc phát triển một lực lượng hạt nhân độc lập sẽ bảo vệ Đức trước khả năng Mỹ đột ngột rút khỏi châu Âu, đồng thời mang lại một con đường khả thi và có ý nghĩa để thực hiện cam kết 5%.
Trong khi đó, việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Nhật Bản sẽ góp phần đáng kể vào việc đạt được mục tiêu chính của Mỹ ở Đông Á, cụ thể là kiềm chế Trung Quốc thông qua các liên minh địa phương vững mạnh. Từ góc nhìn của Washington, mối đe dọa chính từ Bắc Kinh là họ có thể thống trị khu vực và phát triển tiềm lực quân sự để đe dọa nghiêm trọng Mỹ và lợi ích của Mỹ, chẳng hạn bằng cách phá vỡ chuỗi cung ứng chất bán dẫn hoặc thiết lập các căn cứ tiền phương ngoài lãnh thổ của họ ở Đông Á và thậm chí xa hơn. Việc Trung Quốc trở thành bá quyền khu vực sẽ đặt ra thách thức lớn đối với Mỹ.
Nhật Bản vốn đã được hưởng lợi thế phòng thủ từ việc là một quốc gia quần đảo, tách biệt với các đối thủ của mình nhờ biển cả. Khi kết hợp với năng lực hạt nhân độc lập, lợi thế này sẽ thực sự đảm bảo an ninh cho Nhật Bản trước các mối đe dọa từ bên ngoài – và đảm bảo rằng Nhật Bản sẽ không bị Trung Quốc kiểm soát. Không chỉ tự vệ tốt hơn, một Nhật Bản sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ mang lại hình thức răn đe mở rộng đáng tin cậy và tức thời hơn đối với Đông Á so với những gì Mỹ có thể mang lại. Trung Quốc có thể nghi ngờ việc Washington sẵn sàng mạo hiểm chiến tranh hạt nhân vì những diễn biến ở Đông Á, nhưng vị trí địa lý gần gũi và lợi ích trực tiếp của Nhật Bản đối với ổn định khu vực khiến các cam kết của họ trở nên đáng tin cậy hơn nhiều.
Một Nhật Bản sở hữu vũ khí hạt nhân cũng sẽ tạo thêm một lớp bảo vệ trong các kịch bản leo thang khủng hoảng, cho phép phản ứng hiệu quả trước sự xâm lược của Trung Quốc mà không cần trực tiếp lôi kéo Mỹ vào cuộc. Khi cân nhắc một cuộc tấn công vào Nhật Bản, Trung Quốc sẽ buộc phải cân nhắc đến cái giá khổng lồ khi Nhật Bản trả đũa, bất kể có hay không có hỗ trợ bổ sung từ Mỹ. Việc sở hữu vũ khí hạt nhân cũng sẽ trang bị cho Nhật Bản, và rộng hơn là khu vực Đông Á, khả năng ứng phó với sự thay đổi đột ngột trong cam kết an ninh của Washington. Chiến lược Quốc phòng Quốc gia mới nhất của chính quyền Trump ưu tiên bảo vệ lãnh thổ Mỹ và Tây Bán cầu hơn là các mối đe dọa từ Trung Quốc và Nga, báo hiệu một sự thay đổi định hướng có khả năng gây chấn động.
Ở Bắc Mỹ, việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Canada sẽ giúp tăng cường an ninh nội địa Mỹ. Xét đến sự hội nhập của quân đội Canada và Mỹ trong NATO và hệ thống phòng không song phương NORAD, hai nước sẽ cùng nhau chiến đấu trong hầu hết các kịch bản phòng thủ bán cầu có thể hình dung được. Dù Canada không phải đối mặt với các mối đe dọa trực tiếp đối với sự toàn vẹn lãnh thổ từ Nga hay Trung Quốc, nhưng quan hệ của nước này với cả Nga và Trung Quốc đã xấu đi đáng kể trong thập kỷ qua. Một hệ thống răn đe hạt nhân của Canada làm giảm khả năng Mỹ phải bảo vệ nước láng giềng lục địa của mình, theo đó giải phóng năng lực của Mỹ và loại bỏ một con đường xâm lược địa chính trị tiềm tàng. Sự hỗ trợ của Mỹ cho một hệ thống răn đe hạt nhân của Canada là lời trấn an quan trọng về cam kết của Washington đối với việc phòng thủ lục địa vào thời điểm quan hệ song phương giữa hai nước láng giềng đang căng thẳng.
Về phần Canada, việc sở hữu vũ khí hạt nhân báo hiệu với Mỹ rằng họ cũng chấp nhận trách nhiệm chung về phòng thủ lục địa, và rằng Ottawa có thể ngăn chặn những kẻ xâm lược tiềm tàng mà không cần sự hỗ trợ của Mỹ. Như Thủ tướng Canada Mark Carney đã phát biểu hồi tháng 3, “quan hệ cũ” của Canada với Mỹ đã “kết thúc.” Việc sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ giúp Ottawa sẵn sàng đối mặt với thế giới mới này bằng cách tái cấu trúc quan hệ đối tác lục địa và giúp họ tự lực cánh sinh. Hơn nữa, những thách thức trong việc đáp ứng mục tiêu chi tiêu 5% của NATO được cho là quan trọng đối với Canada hơn đối với Đức. Một năng lực răn đe hạt nhân khiêm tốn mang lại giải pháp cho thách thức này, đồng thời cũng mang lại một tài sản chiến lược có ý nghĩa trong kho vũ khí của Canada.
Canada, Đức, và Nhật Bản đều sở hữu năng lực khoa học và công nghiệp để tự mình phát triển thành công vũ khí hạt nhân. Ví dụ, vai trò của Canada như nhà cung cấp vật liệu phân hạch chính sẽ tạo cơ sở cho nỗ lực chung nhằm hiện thực hóa những năng lực hạt nhân mới này. Điều mà ba đồng minh cần – và điều mà Mỹ có thể và nên cung cấp – là sự ủng hộ của công chúng và sự bảo vệ ngoại giao cho quá trình chuyển đổi trở thành các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, cũng như hướng dẫn kỹ thuật và học thuyết để đảm bảo các biện pháp bảo vệ về chỉ huy và kiểm soát.
SỬA CHỮA VẤN ĐỀ HẠT NHÂN
Theo truyền thống, phổ biến vũ khí hạt nhân được hiểu là mối đe dọa đối với sự ổn định của trật tự quốc tế. Khi các quốc gia bắt đầu sở hữu năng lực hạt nhân, cán cân quyền lực khu vực và toàn cầu sẽ thay đổi, đặt ra câu hỏi về các thỏa thuận an ninh hiện có. Theo lập luận này, một quốc gia có năng lực răn đe hạt nhân có thể hành xử hung hăng vì giờ đây họ đã được bảo vệ khỏi những nỗ lực kiềm chế. Quan điểm thông thường này là sai lầm – hoặc chí ít cũng quá đơn giản – vì nó cho rằng tất cả các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân đều hành xử theo cùng một cách. Khi các quốc gia cam kết bảo vệ các quy tắc và chuẩn mực quốc tế sở hữu năng lực hạt nhân, thì trên thực tế, phổ biến vũ khí hạt nhân sẽ làm tăng sự ổn định và sức mạnh của trật tự toàn cầu.
Canada, Đức, và Nhật Bản nằm trong số những quốc gia hàng đầu cam kết với trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Cả ba đều định hình chính sách đối ngoại, và thậm chí cả bản sắc quốc gia, dựa trên tinh thần công dân quốc tế tốt đẹp. Việc phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc ở các quốc gia này sẽ tái cân bằng năng lực quân sự và tạo ra một liên minh thống nhất các cường quốc hạt nhân cam kết ngăn chặn những thế lực xét lại tiềm tàng. Một liên minh như vậy giúp ngăn chặn sự xói mòn hơn nữa các quy tắc, chuẩn mực, và thể chế của trật tự hậu năm 1945, bao gồm cả chuẩn mực chống xâm lược. Bên cạnh những nguồn ổn định vật chất mà nó mang lại, việc phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc còn củng cố các nguồn ổn định mang tính chuẩn mực, vốn cần thiết cho trật tự quốc tế.
Do đó, việc phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc nên được định hình và hiểu như một khoản đầu tư vào việc phục hồi trật tự đó. Canada, Đức, và Nhật Bản sẽ góp phần lấp đầy những khoảng trống từng khiến Nga nhìn thấy những điều kiện thuận lợi hơn cho chủ nghĩa xét lại và có thể khiến Trung Quốc thực hiện những tính toán tương tự.
ĐỪNG SỢ HÃI
Nhiều trong số các quan ngại điển hình do những người phản đối phổ biến vũ khí hạt nhân nêu ra không áp dụng cho việc phổ biến vũ khí có chọn lọc của các đồng minh Mỹ. Ví dụ, không có lý do gì để lo sợ rằng vũ khí hạt nhân của Canada, Đức, hay Nhật Bản sẽ rơi vào tay các quốc gia bất hảo hoặc các tổ chức khủng bố, bởi cả ba đều là những hình mẫu về trách nhiệm, năng lực nhà nước, và ổn định nội bộ. Cũng không cần phải lo lắng về khả năng tư duy hợp lý của các quốc gia này. Nếu nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un có thể thận trọng và cảnh giác đối với kho vũ khí hạt nhân của mình, thì các nhà lãnh đạo ở Ottawa, Berlin, và Tokyo hoàn toàn có thể được kỳ vọng sẽ làm điều tương tự.
Một quan ngại khác là chỉ cần một vài nước theo đuổi năng lực hạt nhân, thì rất nhiều nước khác sẽ hành động tương tự. Lập luận này đơn giản là không thuyết phục. Phổ biến vũ khí hạt nhân lan tỏa thường là kết quả của những cuộc cạnh tranh đã tồn tại từ trước và chịu ảnh hưởng nặng nề bởi sự gần gũi về mặt địa lý, như trường hợp Pakistan theo đuổi bom hạt nhân để đáp trả quyết định sở hữu vũ khí của Ấn Độ. Phổ biến vũ khí hạt nhân ở Canada khó có thể thúc đẩy các nước khác, chẳng hạn như Mexico, theo đuổi bom hạt nhân của riêng mình. Các quốc gia châu Âu có động lực lớn nhất để chống lại sự phổ biến vũ khí hạt nhân ở Đức – Anh và Pháp – đều đã có lực lượng hạt nhân riêng. Các quốc gia có khả năng phổ biến vũ khí hạt nhân khác, chẳng hạn như Ba Lan, có thể bị thuyết phục từ bỏ một chương trình vũ khí hạt nhân độc lập bằng các thỏa thuận chia sẻ hạt nhân đa phương hoặc song phương. Ở Đông Á, việc Nhật Bản sở hữu vũ khí hạt nhân có thể thúc đẩy Hàn Quốc theo đuổi tham vọng hạt nhân bấy lâu nay của mình, nhưng việc Seoul hội nhập vào cấu trúc an ninh của Mỹ làm giảm đáng kể động lực để họ làm vậy. Lợi thế địa lý của Nhật Bản và việc không bị mắc kẹt trong một cuộc xung đột đóng băng (như Hàn Quốc với Triều Tiên sở hữu vũ khí hạt nhân) khiến Nhật Bản trở thành ứng viên hấp dẫn cho việc phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc hơn so với Hàn Quốc. Chắc chắn, nếu Seoul quyết định hành động và chế tạo bom hạt nhân, họ cũng sẽ là một quốc gia giám sát hạt nhân an toàn và đáng tin cậy. Dù về mặt lý thuyết, Đài Loan có thể muốn làm theo, nhưng họ không có con đường khả thi nào để hành động theo mong muốn này do vị thế địa chính trị bấp bênh của hòn đảo đối với Trung Quốc.
Nguy cơ xảy ra tai nạn liên quan đến vũ khí hạt nhân vẫn là quan ngại hợp lý. Đúng là việc phổ biến vũ khí hạt nhân về mặt kỹ thuật sẽ làm tăng khả năng xảy ra chiến tranh hạt nhân ngoài ý muốn, nhưng rủi ro này thấp đến mức có thể bị lu mờ bởi những lợi ích hữu hình đối với sự ổn định và an ninh quốc tế. Ngay cả trong thời kỳ đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh, một thời kỳ đầy rẫy những cuộc cạnh tranh chiến lược và ý thức hệ căng thẳng, hai siêu cường vẫn thành công trong việc tránh được một cuộc chiến hạt nhân. Một trong những ưu điểm của việc phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc là Canada, Đức, và Nhật Bản nằm trong số những quốc gia được trang bị tốt nhất để giảm thiểu rủi ro bổ sung. Tất cả đều có quân đội cực kỳ chuyên nghiệp, sự kiểm soát dân sự mạnh mẽ đối với các lực lượng vũ trang, và các bộ ngoại giao rất thành thạo trong việc giải quyết xung đột bằng con đường hòa bình.
Những lập luận phản đối khác cũng không thể vượt qua kiểm chứng. Ví dụ, một số chuyên gia Mỹ đã phản đối việc phổ biến vũ khí hạt nhân giữa các đồng minh của nước này với lý do rằng điều này sẽ làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ, đặc biệt là đối với Đức và Nhật Bản. Lập luận này đánh đồng các công cụ chiến lược với các mục tiêu. Mục tiêu cơ bản của Washington ở châu Âu và Đông Á là ngăn chặn bất kỳ quốc gia đơn lẻ nào thống trị cả hai khu vực. Trong khi ảnh hưởng của Mỹ đối với các đồng minh chỉ mang lại con đường gián tiếp và không chắc chắn để ngăn chặn sự trỗi dậy của một bá chủ khu vực, thì vũ khí hạt nhân ở Đức và Nhật Bản gần như chắc chắn sẽ đảm bảo kết quả đó. Nói cách khác, phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc sẽ hy sinh một phần ảnh hưởng của Mỹ, nhưng đổi lại, họ sẽ đạt được mục tiêu mong muốn ngay từ đầu.
Rào cản dễ hiểu nhất – và có lẽ là khó vượt qua nhất – chính là sự phản đối của công chúng đối với việc phổ biến vũ khí hạt nhân. Trải nghiệm của Nhật Bản trong các vụ ném bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki vẫn còn in đậm trong ký ức tập thể của họ. Chủ nghĩa hòa bình sau năm 1945 và thái độ hoài nghi chung về năng lượng hạt nhân khiến nhiều người Đức phản đối một hệ thống răn đe hạt nhân độc lập. Canada từ lâu đã phản đối việc triển khai vũ khí hạt nhân trên lãnh thổ của mình, chứ chưa nói đến việc sở hữu vũ khí hạt nhân. Vượt qua những lo ngại này chắc chắn là rất khó, và các quốc gia phải thuyết phục những công dân còn hoài nghi rằng việc sở hữu vũ khí hạt nhân không chỉ giúp họ an toàn hơn, mà còn giúp duy trì “sức khỏe” của trật tự dựa trên luật lệ.
TIẾN HÀNH THẬN TRỌNG
Triển khai phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc sẽ không dễ dàng và luôn có rủi ro nhất định. Điều cần cân nhắc ngay lập tức là Canada, Đức, và Nhật Bản phải rút khỏi Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT), trong đó họ đã đồng ý không phát triển bom hạt nhân. Cam kết thực hiện đúng quy trình rút khỏi hiệp ước theo luật pháp quốc tế sẽ báo hiệu ý định của họ nhằm ổn định trật tự quốc tế và tăng cường an ninh quốc tế thay vì làm suy yếu cả hai. Trong phạm vi có thể, việc rút khỏi NPT nên được thông báo cẩn thận trước cho các đồng minh chủ chốt để giảm thiểu lo ngại. Sẽ là không thực tế khi mong đợi các quốc gia khác chấp nhận hành động rút lui, nhưng việc theo đuổi phổ biến vũ khí hạt nhân một cách có trách nhiệm và minh bạch là dấu hiệu cho thiện chí của ba quốc gia này. Chính lúc này, sự hỗ trợ ngoại giao của Mỹ trở nên đặc biệt có giá trị; họ cần phối hợp với Pháp và Anh để đảm bảo rằng các quốc gia hạt nhân mới không trở thành mục tiêu của các biện pháp thực thi của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Để đảm bảo tối đa cho các quốc gia hoài nghi, ba quốc gia theo đuổi vũ khí hạt nhân nên cân nhắc áp dụng chính sách “không sử dụng vũ khí hạt nhân trước,” chí ít là trong thời gian họ vẫn nằm dưới chiếc ô hạt nhân của Mỹ. Dù NATO từng không sẵn lòng cam kết với chính sách này trong thời Chiến tranh Lạnh, nhưng Canada, Đức, và Nhật Bản đang đối mặt với những thách thức an ninh ít nghiêm trọng hơn, ít nhất là ở thời điểm hiện tại, và do đó có thể cân nhắc thực hiện bước đi này để thể hiện cam kết duy trì nguyên trạng.
Phổ biến vũ khí hạt nhân có chọn lọc đòi hỏi sự quản lý cẩn thận để phát huy hết tiềm năng của nó, nhưng nó cũng mang lại cơ sở thực sự cho sự lạc quan. Lý lẽ ủng hộ nó vẫn còn gây tranh cãi như mọi khi, nhưng việc quốc gia nào sở hữu bom hạt nhân là rất quan trọng. Nếu những quốc gia nắm giữ vũ khí hạt nhân là đồng minh, sở hữu chính phủ ổn định, và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, thì việc có thêm vũ khí hạt nhân quả thực có thể giúp tình hình trở nên tốt hơn.
Moritz S. Graefrath là giáo sư về An ninh Quốc tế tại Đại học Oklahoma và là nghiên cứu viên không thường trú tại Viện các vấn đề toàn cầu thuộc Eurasia Group.
Mark A. Raymond là giáo sư về Quan hệ Quốc tế tại Đại học Oklahoma và phó giám đốc Chính sách An ninh Quốc tế tại Viện Đổi mới Hàng không Vũ trụ và Quốc phòng Oklahoma.
