Liệu loại thuốc đột phá tiếp theo có đến từ Trung Quốc?

Nguồn: Eleanor Olcott, “Will the next blockbuster drug come from China?,” Financial Times, 02/12/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Ngành công nghiệp dược phẩm sinh học đang bùng nổ sau khi nhận đầu tư kỷ lục và chuỗi cung ứng được cải thiện.

Tại một vùng ngoại ô công nghiệp ở Thượng Hải, một cuộc “đổi ngôi” trong ngành sản xuất thuốc đang âm thầm diễn ra.

Các kỹ sư đang kiểm tra một dãy thùng thép không gỉ khổng lồ, nơi sắp bắt đầu sản xuất một loại thuốc sinh học có nguồn gốc từ tế bào buồng trứng chuột hamster. Với mỗi thùng đủ lớn để sản xuất 50.000 lít thuốc, cơ sở này là minh chứng cho thấy sự bùng nổ của ngành công nghiệp dược phẩm sinh học đang diễn ra trên khắp Trung Quốc.

Nhà máy này thuộc về BiBo Pharma. Công ty vừa bắt đầu xây dựng nó vào tháng 2 nhưng hiện đã vượt tiến độ một tháng, nhờ vào quy trình phê duyệt thần tốc và sự hỗ trợ trực tiếp từ chính quyền quận Lâm Cảng.

Ngành công nghiệp dược phẩm sinh học Trung Quốc đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Một loạt các thương vụ mua bán đã thu hút các nhà sản xuất dược phẩm nước ngoài đến Trung Quốc để tìm kiếm những phân tử thuốc tiềm năng nhằm bổ sung cho danh mục sản phẩm đang ngày càng cạn kiệt của họ. Ví dụ, vào tháng 6, AstraZeneca đã ký một thỏa thuận với công ty công nghệ sinh học CSPC Pharmaceuticals của Trung Quốc với trị giá lên tới 5,2 tỷ đô la.

Chỉ năm năm trước, ngành này còn bị chế giễu là tụt hậu do thất bại trong việc sản xuất vaccine Covid-19 hiệu quả. Ngày nay, các giám đốc điều hành và nhà đầu tư dược phẩm phương Tây lại rỉ tai nhau cảnh báo rằng các công ty của họ có nguy cơ mất vị thế dẫn đầu về đổi mới thuốc vào tay Trung Quốc.

Cốt lõi của sự trỗi dậy trong ngành dược phẩm sinh học Trung Quốc là tốc độ và hiệu quả – những yếu tố giúp việc phát triển thuốc không chỉ nhanh hơn mà còn rẻ hơn đáng kể. Lợi thế của nước này đến từ lực lượng lao động hùng hậu với tay nghề cao: từ các nhà nghiên cứu phòng thí nghiệm và nhà sản xuất thiết bị, đến những công nhân đứng bên dây chuyền sản xuất mới của BiBo. Đúng là một vài người trong nhóm nhân tài này đã được đào tạo tại các trường đại học Mỹ và các tập đoàn dược phẩm lớn, nhưng phần lớn lực lượng lao động vẫn là các kỹ sư được đào tạo trong nước.

Một báo cáo của McKinsey đã chỉ ra lợi thế về thời gian và chi phí của Trung Quốc ở mọi giai đoạn phát triển thuốc. Công ty tư vấn này ước tính rằng các nhà sản xuất thuốc Trung Quốc có thể tiến nhanh hơn mức trung bình toàn cầu từ hai đến ba lần trong việc đưa một phân tử mục tiêu thành một ứng viên thuốc mới và sau đó đi vào các thử nghiệm lâm sàng ban đầu.

Một khi liệu pháp vượt qua các thử nghiệm ban đầu trên động vật, việc tuyển chọn bệnh nhân cho các thử nghiệm lâm sàng ở Trung Quốc cũng nhanh hơn từ hai đến năm lần tùy thuộc vào lĩnh vực điều trị, nhờ vào lượng bệnh nhân lớn với các nhu cầu y tế chưa được đáp ứng.

Tỷ trọng ngày càng tăng của Trung Quốc trong đổi mới công nghệ sinh học toàn cầu. Biểu đồ cho thấy tỷ trọng % của khu vực so với toàn cầu. Nguồn: McKinsey & Company. Dựa trên dữ liệu tính đến tháng 9 năm 2025

Peng Jiao, nhà sáng lập kiêm giám đốc điều hành của BiBo, nhận xét “Trong ba đến bốn năm qua, Trung Quốc đã thực sự tăng tốc. Đây là một trong những nguồn đổi mới quan trọng nhất.” Ông nói thêm rằng thế mạnh của Trung Quốc trong việc phát triển các loại thuốc mới nằm ở những lĩnh vực mà nghiên cứu nền tảng đã được thiết lập, nhưng vẫn cần thêm công trình trong phòng thí nghiệm để tìm ra công thức phù hợp.

“Việc này giống như giải một câu đố, nó đòi hỏi tư duy kỹ thuật hơn là tư duy khoa học. Với loại công việc này, bạn cần một đội ngũ hiệu quả cao, những người sẽ hành động cực nhanh để tìm ra hướng đi phù hợp,” ông bổ sung.

Các công ty Trung Quốc có thể đạt được tốc độ và tiết kiệm chi phí hơn hẳn so với các đối thủ phương Tây là nhờ sự hỗ trợ hào phóng của nhà nước. Nhà máy của Peng nằm ngay cạnh siêu nhà máy Tesla Thượng Hải, bên trong một khu công nghiệp dành riêng cho các công ty khởi nghiệp công nghệ sinh học, vốn sẽ nhận được trợ cấp, tiền thuê đất rẻ, và hỗ trợ từ đầu đến cuối từ chính quyền Lâm Cảng.

Các quan chức chỉ mất chín ngày để phê duyệt kế hoạch xây dựng của BiBo – một quá trình có thể kéo dài tới sáu tháng ở Châu Âu, nơi Peng đang tìm kiếm một địa điểm sản xuất khác.

Peng hiện đang sản xuất thuốc sinh học (biologics, thuốc có nguồn gốc từ sinh vật sống) ở cả Boston và Thượng Hải. Ông cho biết, chỉ một thập kỷ trước, vẫn có khoảng cách rõ ràng về kinh nghiệm giữa đội ngũ khoa học của ông tại Mỹ và Trung Quốc. Nhưng giờ đây, khoảng cách đó đã biến mất. Ông nói rằng đội ngũ nhân viên Thượng Hải của mình cũng giàu kinh nghiệm không kém – và còn có thể hoàn thành công việc nhanh hơn, ở quy mô lớn hơn.

Đối với những nhà sáng lập như Peng, sức hút của Trung Quốc đã tăng mạnh. Mạng lưới chuỗi cung ứng của nước này giúp đẩy nhanh mọi giai đoạn của quy trình nghiên cứu và phát triển, từ khám phá đến sản xuất quy mô lớn và thử nghiệm lâm sàng. Thời gian rút ngắn giúp cải thiện cơ hội sống sót cho các công ty công nghệ sinh học ở giai đoạn đầu, cho phép họ thử nghiệm nhiều ý tưởng hơn, nhanh chóng loại bỏ thử nghiệm thất bại, và tăng cơ hội tìm ra một liệu pháp đột phá.

Tuy nhiên, ngành công nghiệp đang phải đối mặt với một câu hỏi then chốt: liệu các nhà vô địch công nghệ sinh học mới nổi của Trung Quốc có thể phát triển thành các công ty toàn cầu thực thụ, đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn dược phẩm lớn nhất thế giới hay không? Và liệu tình hình địa chính trị ngày càng căng thẳng – đặc biệt là với Mỹ, thị trường thuốc mang lại lợi nhuận cao nhất thế giới – có ngăn cản sự mở rộng của họ hay không?

Nhân viên phân loại và đóng gói thuốc trên dây chuyền sản xuất tại Giang Tô. Các nhà sản xuất thuốc Trung Quốc thường có tốc độ nhanh hơn các đối thủ phương Tây trong suốt quá trình phát triển. © CFOTO/NurPhoto/Reuters

Chen Chen, nhà phân tích dược phẩm của UBS, khẳng định “Hoạt động R&D giai đoạn đầu của Trung Quốc hiện đã có khả năng cạnh tranh toàn cầu. Nhưng đối với giai đoạn sau – như thử nghiệm ở nước ngoài, nộp hồ sơ đăng ký pháp lý và thương mại hóa – các công ty Trung Quốc vẫn còn nhiều không gian để phát triển.”

“Điều đó không phải lúc nào cũng đúng,” bà nói thêm. Bằng cách hợp tác với các nhà sản xuất thuốc đa quốc gia để đưa sản phẩm ra nước ngoài, các công ty công nghệ sinh học Trung Quốc có thể “đảm bảo nguồn tài trợ cho sự đổi mới liên tục, đồng thời học hỏi từ thế mạnh của các đối tác trong phát triển lâm sàng và thương mại hóa.”

Bà tin rằng “Theo thời gian, các công ty Trung Quốc sẽ xây dựng được năng lực toàn cầu của riêng mình.”

Trung Quốc đã dần leo lên các bậc thang trong chuỗi cung ứng thuốc toàn cầu. Vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, nước này đã nuôi dưỡng một thế hệ các nhà sản xuất thuốc generic chuyên sao chép các loại thuốc hết hạn bằng sáng chế.

Sau đó, họ chuyển sang cung cấp các loại dược chất (API), trước khi trở thành điểm đến ưa thích cho việc thuê ngoài sản xuất công nghệ sinh học, và cuối cùng thì tự phát triển thuốc.

Ở mỗi bước, các tổ chức nghiên cứu lâm sàng (CRO) và tổ chức sản xuất theo hợp đồng (CMO) của Trung Quốc – những đơn vị phát triển và sản xuất thuốc thay mặt cho các công ty công nghệ sinh học – đã tích lũy chuyên môn trong các quy trình khoa học và kỹ thuật ngày càng phức tạp.

Sự tiến bộ này đã biến các công ty gia công như WuXi AppTec và GenScript thành những mắt xích quan trọng trong việc phát triển thuốc không chỉ ở Trung Quốc, mà còn cho các công ty công nghệ sinh học trên toàn thế giới.

Ashoka Rajendra, nhà sáng lập Orchestra, một nền tảng phần mềm dành riêng cho các công ty công nghệ sinh học có trụ sở tại San Francisco, kể lại rằng “Trong ngành công nghệ sinh học Mỹ có một câu đùa rằng nếu bạn muốn chạy một nghiên cứu, thì ‘cứ WuXi mà làm’ (just WuXi it).”

“Có cả một cơ sở hạ tầng ở Trung Quốc đang hỗ trợ hoạt động R&D của Mỹ và Châu Âu,” ông nói. “Ban đầu, các công ty sẽ đến Trung Quốc để thực hiện những dự án rất cụ thể, chẳng hạn như sản xuất DNA hoặc protein. Sau đó, công việc được nâng lên mức độ phức tạp cao hơn. Không chỉ là những nhiệm vụ với một bộ hướng dẫn chính xác, mà còn là việc chạy các nghiên cứu và tạo ra dữ liệu.”

Ngành dược phẩm Trung Quốc đã chứng kiến làn sóng đầu tư mạo hiểm sau cuộc cải cách vào giữa những năm 2010. Biểu đồ cho thấy tổng vốn đầu tư mạo hiểm vào ngành dược phẩm sinh học của Trung Quốc (tỷ đô la) Nguồn: McKinsey & Company; BCIQ. Dữ liệu của năm 2025 tính đến ngày 25/09.

Egan Peltan là một trong những nhà sáng lập công nghệ sinh học Mỹ phụ thuộc vào các nhà cung cấp Trung Quốc. “Ban đầu, ngành công nghiệp sử dụng CRO Trung Quốc vì họ rẻ hơn. Điều đó không còn đúng nữa; giá của họ giờ đã tương đương. Nhưng chúng tôi vẫn sử dụng họ vì tính hiệu quả và tiết kiệm thời gian,” ông nói.

Đối với các công ty công nghệ sinh học non trẻ, tốc độ cung ứng là yếu tố quyết định sự sống còn. “Một dự án mà một CRO của Mỹ mất sáu đến tám tuần thì một công ty Trung Quốc chỉ mất khoảng ba… Đối với các công ty giai đoạn đầu chưa có doanh thu, mỗi ngày chờ đợi chính là mỗi ngày bạn đang đốt tiền,” Peltan nói.

Trong thập kỷ qua, chính bí quyết chuyên môn này đã được chuyển hướng từ phục vụ khách hàng nước ngoài sang khách hàng trong nước. Ngành công nghệ sinh học Trung Quốc đang trải qua quá trình chuyển đổi tương tự như trong sản xuất xe hơi, điện tử tiêu dùng, và thậm chí cả dệt may: từ một trung tâm gia công giá rẻ thành một nguồn sở hữu trí tuệ riêng. Sự chuyển dịch này đặc biệt rõ nét trong lĩnh vực thuốc sinh học và liệu pháp tế bào, những lĩnh vực phụ thuộc vào thử nghiệm nhanh và công việc phòng thí nghiệm lặp đi lặp lại – những nhiệm vụ sẽ rẻ hơn và nhanh hơn khi được thực hiện tại Trung Quốc.

Zhang Fangning, đối tác mảng khoa học đời sống tại Trung Quốc của McKinsey, cho biết quy mô và tốc độ thay đổi có thể khiến một số người kinh ngạc. “Nhưng nguồn gốc của sự tăng trưởng này nằm ở những yếu tố đã đồng hành cùng nhau trong hơn một thập kỷ: tăng trưởng ổn định về nhân tài và vốn; các chính sách hỗ trợ; chuỗi cung ứng địa phương vững mạnh; và sự tận tâm của đội ngũ kỹ sư và nhà khoa học đang thúc đẩy cả quá trình.”

Bắc Kinh đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi này bằng cách ưu tiên công nghệ sinh học như một lĩnh vực chiến lược cho cả tăng trưởng kinh tế và là phương tiện để phát triển các loại thuốc phù hợp với người dân Trung Quốc.

Từ giữa những năm 2010, họ đã triển khai những cải cách giúp các công ty công nghệ sinh học dễ dàng huy động vốn và theo đuổi đổi mới. Sau đó, vào năm 2018, Hong Kong nới lỏng các quy định niêm yết trên thị trường chứng khoán, cho phép các công ty chưa có doanh thu được niêm yết và làn sóng IPO công nghệ sinh học sau đó đã mở đường cho đầu tư mạo hiểm.

Cũng vào khoảng thời gian đó, các cơ quan quản lý dược phẩm tại Trung Quốc bắt đầu nới lỏng các yêu cầu thử nghiệm lâm sàng đối với một số loại liệu pháp cải tiến, giúp việc phát triển các thuốc mới trở nên dễ dàng hơn.

Rona Therapeutics là một trong những công ty hưởng lợi từ chính sách đó. Công ty khởi nghiệp này có trụ sở tại Thượng Hải, dự kiến niêm yết tại Hong Kong, chuyên về các liệu pháp can thiệp RNA giúp ức chế các protein liên quan đến các bệnh chuyển hóa như béo phì. Dù chỉ mới thành lập vào năm 2021, nhưng Rona đã có 15 loại thuốc trong danh mục phát triển, với ba loại đang được thử nghiệm lâm sàng.

“Vì chi phí phát triển thuốc ở Trung Quốc thấp hơn rất nhiều, nên các công ty có thể đủ khả năng mở rộng danh mục sản phẩm,” nhà sáng lập kiêm giám đốc điều hành Stella Shi cho biết. “Trong khi một công ty Mỹ có thể phải tập trung vào một tài sản duy nhất, thì các công ty công nghệ sinh học Trung Quốc niêm yết tại Hong Kong thường có ít nhất 10 ứng viên thuốc.”

Dữ liệu phản ánh sự thay đổi đó. Theo McKinsey, tỷ trọng của Trung Quốc trong các loại thuốc đổi mới toàn cầu đang được thử nghiệm lâm sàng đã tăng từ 8% năm 2018 lên 30% trong năm nay. Trong cùng kỳ, tỷ trọng của Mỹ đã giảm từ 47% xuống còn 36%.

Trung Quốc đang dẫn đầu thế giới về phát triển ADC và kháng thể. Tỷ lệ tài sản sáng tạo mức 1 và 2 từ Trung Quốc và Mỹ trong các công nghệ thế hệ tiếp theo, tính theo phần trăm, vào năm 2025. Nguồn: McKinsey & Company *Bao gồm liệu pháp CAR-T, TCR-T và tế bào gốc ** Bao gồm siRNA, RNAi, và mRNA. Dữ liệu tính đến tháng 09/2025.

Thế mạnh của Trung Quốc trong công nghệ sinh học tập trung vào các lĩnh vực đòi hỏi kỹ thuật chuyên sâu và khối lượng công việc phòng thí nghiệm lớn để lặp lại và tinh chỉnh các liệu pháp mới. Điều này được thể hiện đặc biệt rõ trong các liên hợp kháng thể-thuốc (ADC, thường gọi là “tên lửa sinh học” đưa hóa chất trực tiếp đến khối u) cũng như các kháng thể đa đặc hiệu (protein miễn dịch liên kết với bề mặt tế bào ung thư). McKinsey ước tính rằng các công ty Trung Quốc hiện chiếm 54% tài sản sáng tạo về ADC trong các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1 và 2, cùng với 48% kháng thể đa đặc hiệu.

Sichuan Biokin, một công ty niêm yết chuyên phát triển các liệu pháp ADC nhắm mục tiêu cho bệnh ung thư, hiện có 17 phương pháp điều trị trong danh mục phát triển. ADC đã thu hút sự quan tâm đáng kể của các nhà đầu tư công nghệ sinh học phương Tây vào đầu những năm 2010, nhờ hiệu quả tiêu diệt tế bào ung thư. Tuy nhiên, nhiều chương trình đã bị đình trệ do khó kiểm soát các tác dụng phụ độc hại.

“ADC có khả năng tiêu diệt khối u mạnh hơn. Vấn đề trong những năm 2010 là không ai có thể giải quyết được độc tính,” nhà sáng lập kiêm giám đốc điều hành Zhu Yi cho biết. Ông mô tả thách thức này về cơ bản là một bài toán kỹ thuật: xác định “con đường kỹ thuật cụ thể phù hợp” cho phép một loại thuốc có độc tính cao tấn công tế bào ung thư mà không gây tổn thương cho mô khỏe mạnh.

Về mặt này, ông lập luận rằng “các công ty Trung Quốc có lợi thế tự nhiên” do nguồn cung dồi dào các kỹ thuật viên lành nghề để nhanh chóng tiến hành các thí nghiệm và quy trình thử nghiệm lâm sàng tương đối dễ dàng.

Theo McKinsey, thời gian để tìm kiếm bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng tại Trung Quốc chỉ bằng khoảng một nửa thời gian trung bình toàn cầu và chi phí cho mỗi bệnh nhân thấp hơn khoảng 50% so với ở Mỹ và Châu Âu.

Sự hiệu quả này được thúc đẩy không chỉ bởi dân số lớn và đang già hóa của Trung Quốc – nhiều người trong số họ không có khả năng tiếp cận các liệu pháp đắt tiền – mà còn bởi cấu trúc hệ thống bệnh viện và khả năng bệnh nhân tìm hiểu về các thử nghiệm đang diễn ra thông qua mạng xã hội và tình nguyện trực tiếp.

Năng lực ngày càng phát triển của Trung Quốc đã thu hút các tập đoàn dược phẩm đa quốc gia đến nước này để mua hoặc hợp tác phát triển các loại thuốc tiên tiến. Theo McKinsey, tỷ trọng các thương vụ nhượng quyền (out-licensing) của Trung Quốc sang Mỹ và Châu Âu đã tăng từ 2% vào năm 2018 lên 20% trong năm nay.

Sự gia tăng các thương vụ này đã thay đổi công việc của các luật sư như Aaron Gu tại Văn phòng Luật sư Han Kun ở Thượng Hải. Năm năm trước, ông chủ yếu tư vấn cho các thương vụ mà trong đó các công ty Trung Quốc mua lại quyền sở hữu trong nước đối với các loại thuốc do nước ngoài phát triển. Giờ đây, ông chủ yếu làm việc với các thỏa thuận cấp phép bên ngoài, trong đó các công ty Trung Quốc bán tài sản mà họ chế tạo ở trong nước cho các nhà sản xuất dược phẩm đa quốc gia.

Ông tiết lộ “Đối với các công ty dược phẩm lớn, các thỏa thuận mà họ ký với Trung Quốc không phải là số tiền lớn so với tiềm năng doanh thu trong tương lai từ các tài sản này – và những khoản lỗ phát sinh từ tình trạng hết hạn bằng sáng chế.”

Dù đã chứng kiến ngành công nghệ sinh học của Trung Quốc phát triển nhanh chóng, nhưng ông cảnh báo rằng vẫn cần “rất nhiều năm” trước khi các công ty này phát triển thành những công ty dược phẩm toàn cầu với quy mô như Johnson & Johnson hay AstraZeneca. Không có tập đoàn Trung Quốc nào lọt vào top 20 công ty dược phẩm niêm yết lớn nhất thế giới tính theo vốn hóa thị trường – ba công ty hàng đầu vẫn là công ty Mỹ.

Josh Smiley, giám đốc điều hành Zai Lab, nhận định các công ty Trung Quốc sẽ cần thêm thời gian để phát triển “các hệ thống hướng đến quy mô toàn cầu. Chúng ta sẽ tiếp tục chứng kiến những đổi mới thực sự tốt đẹp đến từ Trung Quốc trong vài năm tới. Nhưng trong nhiều trường hợp, những nhà đổi mới này sẽ cần một đối tác hỗ trợ phát triển,” ông nói.

Họ cũng phải xây dựng lực lượng bán hàng quốc tế, thích nghi với các hệ thống quy định nước ngoài, và phát triển chuỗi cung ứng bên ngoài Trung Quốc, đặc biệt là trong lúc các chính phủ phương Tây đang thúc đẩy việc nội địa hóa sản xuất đối với các ngành công nghiệp quan trọng như dược phẩm. Đối với nhiều công ty công nghệ sinh học Trung Quốc – thường không có lợi nhuận và doanh thu không ổn định – những khoản đầu tư này vẫn nằm ngoài tầm với.

Một nhân viên đang thử nghiệm thuốc chống viêm tại Tô Thiên. Các tổ chức Trung Quốc đã tích lũy được chuyên môn trong các quy trình khoa học và kỹ thuật ngày càng phức tạp © CFOTO/NurPhoto/Reuters

BeOne (được thành lập tại Bắc Kinh, trước đây gọi là BeiGene) đã chuyển trụ sở chính ra khỏi Trung Quốc và được xem là công ty công nghệ sinh học do người Trung Quốc sáng lập thành công nhất trong việc xây dựng quy trình vận hành mang tính quốc tế toàn diện. Nhưng sự mở rộng này đã được thúc đẩy bởi nguồn tài trợ lớn chưa từng có, lên đến vài tỷ đô la, một nguồn vốn mà các công ty công nghệ sinh học khác của Trung Quốc không thể tiếp cận.

Tuy nhiên, Zhu của Sichuan Biokin vẫn lạc quan về tiềm năng công ty của mình trở thành một công ty dược phẩm đa quốc gia. Vào năm 2023, họ đã ký một thỏa thuận với Bristol Myers Squibb có trụ sở tại Mỹ để cùng phát triển một loại thuốc ADC cho các khối u rắn, bao gồm ung thư phổi không tế bào nhỏ và ung thư vú.

Những quan hệ đối tác như vậy rất cần thiết cho các công ty công nghệ sinh học Trung Quốc đang tìm cách thâm nhập vào các thị trường nước ngoài béo bở, đặc biệt là Mỹ. Theo McKinsey, tỷ trọng của Trung Quốc trong các loại thuốc mới được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) phê duyệt  – được định nghĩa là thuốc chứa thành phần hoạt chất chưa được phê duyệt trước đó – đã tăng từ 1% năm 2018 lên 6% tính đến thời điểm hiện tại của năm 2025.

Các nhà quản lý Trung Quốc đang áp dụng những chính sách mặc cả khắt khe về giá thuốc, đồng nghĩa với việc các công ty phải mở rộng ra nước ngoài để đạt được lợi nhuận cần thiết cho tăng trưởng dài hạn. “Việc quản lý xuyên quốc gia làm tăng độ phức tạp và nhu cầu nguồn lực theo cấp số nhân,” Zhu nói. “Hợp tác với một tập đoàn đa quốc gia cho phép chúng tôi trực tiếp học hỏi cách thức vận hành toàn cầu. Giống như có một gia sư riêng hướng dẫn bạn, ngày qua ngày, cách xây dựng một doanh nghiệp toàn cầu.”

Ông nói thêm rằng việc hợp tác với các tập đoàn nước ngoài lớn hơn đã giúp Sichuan Biokin hiểu được cấu trúc tổ chức và năng lực cần thiết để mở rộng quy mô. “Chúng tôi đã học hỏi từ đó và rút kinh nghiệm thêm từ thực tế. Nhưng chúng tôi cũng nhận ra những điểm yếu của các hãng dược phẩm lớn – bộ máy quan liêu và sự kém hiệu quả – điều này đã giúp chúng tôi tránh được những sai lầm khi phát triển.”

Có lẽ vẫn còn nhiều trở ngại. Tại Washington, ngày càng có nhiều lời cảnh báo về sự trỗi dậy của ngành dược phẩm sinh học Trung Quốc. Các nhà lập pháp Mỹ đã bắt đầu tìm cách hạn chế sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp nguyên liệu dược phẩm cũng như các CRO và CMO của Trung Quốc. Hồi tháng 10, một nhóm thượng nghị sĩ Mỹ đã đặt câu hỏi tại sao các công ty dược phẩm lại mở rộng đầu tư vào Trung Quốc và cho rằng ngành công nghiệp này cần phải chuyển sản xuất về nước và bảo vệ sự đổi mới trong nước.

Brad Loncar, một chuyên gia về công nghệ sinh học Trung Quốc, dự đoán rằng chính phủ có thể quyết định can thiệp trực tiếp.

“Các công ty Mỹ và toàn cầu đang tài trợ cho sự trỗi dậy, giáo dục, và kiến thức của ngành công nghệ sinh học Trung Quốc,” ông nói. “Ngành công nghệ sinh học Trung Quốc hiện tại giống như những cô cậu sinh viên đại học. [Mỹ và các nước khác] đang gửi họ đi học và trả tiền học phí. Nhưng một ngày nào đó họ sẽ tốt nghiệp và tự đứng trên đôi chân của mình.”

Thông tin bổ sung từ Wang Xueqiao tại Thượng Hải.