
Nguồn: Tần Huy và Perry Link, “China’s ‘Low-Human-Rights’ Advantage,” The Diplomat, 13/12/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Người phương Tây nói rằng họ cần phải tránh một cuộc Chiến tranh Lạnh mới mà không nhận ra rằng họ đã ở trong cuộc chiến đó rồi – và Trung Quốc đang thắng thế.
Tần Huy (Qin Hui), giáo sư danh dự ngành lịch sử và kinh tế tại Đại học Thanh Hoa và là một trí thức công lỗi lạc của Trung Quốc, hiện đang sống và viết sách ở nước ngoài. Hồi tháng 4 năm nay, ông đã xuất bản một cuốn sách về “lợi thế nhân quyền thấp” của Trung Quốc. Suốt nhiều năm, người phương Tây đã trầm trồ trước “phép màu” kinh tế ở Trung Quốc và kỳ vọng rằng sự phát triển của tầng lớp trung lưu Trung Quốc sẽ dẫn đến tự do hóa chính trị. Nhưng Tần chưa bao giờ nghĩ rằng ông đang chứng kiến một phép màu.
Những gì ông nhìn thấy là hàng trăm triệu lao động bị trả lương thấp, làm việc nhiều giờ liền trong một môi trường không có tự do báo chí, không có công đoàn độc lập, và không có tòa án độc lập – nhưng lại có một lực lượng cảnh sát rất hiệu quả. Chẳng có gì là phép màu cả, chính những người lao động cần cù này đã tạo ra khối tài sản khổng lồ, phần lớn chảy vào túi nhà nước Trung Quốc, các gia đình tinh hoa có quan hệ với nhà nước, và các tập đoàn nước ngoài. Tần nhận thấy rằng chế độ chuyên chế, dù mang tiếng xấu, nhưng trong những điều kiện nhất định vẫn có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cực kỳ nhanh chóng.
Sau đây là bản chuyển thể và dịch lời tựa cho cuốn sách mới của Tần Huy, “Chửng cứu Dân chủ” (Cứu lấy nền dân chủ) – tựa tiếng Anh là “Save Mr. Democracy” (Cứu lấy Ông Dân chủ) – viết bởi Perry Link, giáo sư danh dự về Văn học So sánh và Tiếng Trung tại Đại học UC Riverside và là tác giả của nhiều cuốn sách về văn học, xã hội, và chính trị Trung Quốc.
—
Nhiều người ở cả Trung Quốc và phương Tây đang sống với một quan niệm sai lầm nghiêm trọng về lịch sử rằng, sau khi tàu chiến Anh giành chiến thắng áp đảo trong các cuộc chiến bên bờ biển Trung Quốc vào giữa thế kỷ 19, người Trung Quốc cảm thấy phải nhanh chóng tiếp thu khoa học phương Tây, nhưng lại chậm hơn nhiều trong việc bị thu hút bởi nền dân chủ phương Tây. Đúng là khoa học phương Tây đã du nhập vào Trung Quốc nhanh hơn nhiều so với dân chủ. Nhưng đó là vì các chế độ chính trị Trung Quốc, từ thời cổ đại đến nay, đã đàn áp người dân nước này – chứ không phải vì người dân thờ ơ với ý tưởng làm chủ cuộc sống của chính mình.
Quách Tung Đảo (Guo Songtao), đại sứ đầu tiên của Trung Quốc tại Anh và Pháp vào cuối những năm 1870, đã rất ấn tượng với cách các chính phủ phương Tây quan niệm về pháp quyền và cách họ quy định rằng người cai trị phải phục vụ dựa trên sự chấp thuận của người bị trị. Điều quan trọng cần lưu ý là Quách ca ngợi những quan niệm này không phải bằng cách giới thiệu từ vựng phương Tây mới cho độc giả Trung Quốc, mà bằng cách viện dẫn các câu châm ngôn cổ của Trung Quốc về việc người cai trị phải bảo vệ lợi ích của người bị trị và nên bị lật đổ nếu họ không làm vậy. Một số cơ chế của nền dân chủ hiện đại – đáng chú ý là tam quyền phân lập – quả thực là mới mẻ đối với Trung Quốc, nhưng ý tưởng về “quyền cai trị của nhân dân” (dịch nghĩa đen của từ minzhu, dân chủ) đã cộng hưởng với một số đặc điểm sâu sắc trong tư tưởng dân gian. Các ý tưởng về “quyền lực của nhân dân” (minquan, dân quyền), “ý chí của nhân dân” (minyi, dân ý), và “quốc gia của nhân dân” (minguo, dân quốc) chí ít cũng hấp dẫn không kém gì những ý tưởng về khoa học vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trong thời kỳ “Khai sáng Trung Quốc” vào cuối những năm 1910 và đầu những năm 1920, “Ông Dân chủ” (Mr. Democracy) được xem là người anh em song sinh với “Ông Khoa học” (Mr. Science) trong việc mở ra con đường phía trước cho đất nước.
Chủ nghĩa chuyên chế trong những năm Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949) và chủ nghĩa chuyên chế thậm chí còn tồi tệ hơn trong những năm Mao Trạch Đông (1949-1976) đã khiến ý tưởng “dân chủ” luôn ở thế phòng thủ. Một tia hy vọng lạc quan từng lóe lên trong thời gian ngắn vào cuối những năm 1970 và 1980, và có thể đã dẫn đến nền dân chủ, nếu Đặng Tiểu Bình không “khăng khăng” khẳng định Bốn Nguyên tắc Cơ bản của mình: hệ thống xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tư tưởng Mao Trạch Đông, và chuyên chính vô sản. Vụ thảm sát ngày 04/06/1989 đã đẩy hy vọng dân chủ chìm sâu trở lại vào bóng tối.
Tuy nhiên, cũng chính vào năm 1989, Cách mạng Nhung đã dẫn đến sự thay đổi chế độ ở Đông Âu, và vào năm 1992, khi Liên Xô sụp đổ và Francis Fukuyama viết rằng dân chủ tự do là thể thức “cáo chung của lịch sử,” giới trí thức Trung Quốc bắt đầu nhen nhóm lại hy vọng. Có lẽ Trung Quốc có thể, theo cách nói ẩn dụ phổ biến thời bấy giờ, “kết nối các tuyến đường” (jiegui, tiếp quỹ hay hòa nhập) với thế giới. Khi một nhóm “nhân khẩu lưu động” (floating population) gồm hàng trăm triệu nông dân đổ về các thành phố và khu vực ven biển của Trung Quốc để làm việc trong ngành sản xuất và xây dựng, họ đã thúc đẩy một sự bùng nổ kinh tế khổng lồ. Xuất khẩu của Trung Quốc tăng vọt, và một số người Trung Quốc theo chủ nghĩa tự do hy vọng rằng nếu đất nước gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (điều mà họ đã làm vào năm 2000), thì “kết nối” sẽ trở nên không thể đảo ngược.
Nhưng đã có những cuộc tranh luận sôi nổi trong nội bộ Trung Quốc về việc liệu đó có phải là một điều tốt hay không. Một số người lập luận rằng áp lực kinh tế sẽ buộc nước này phải tự do hóa theo cách hoan nghênh. Những người khác lại cho rằng áp lực từ bên ngoài có thể quá mạnh và hệ thống của Trung Quốc có thể sụp đổ. Hai bên không khác biệt nhiều trong phân tích; họ đều đồng ý rằng tư cách thành viên WTO sẽ mang lại những thay đổi quan trọng. Họ chỉ khác nhau về giá trị của kết quả được dự đoán. Hiếm có ai lường trước được điều thực sự đã xảy ra – rằng những kết quả đó sẽ tạo ra lợi thế lớn cho một hệ thống chuyên chế.
Lợi thế nhân quyền thấp
Một chính phủ chuyên chế có lợi thế trong cạnh tranh kinh tế khi hoạt động trong một hệ thống thị trường bao gồm các nền kinh tế của một hoặc nhiều nền dân chủ. Ở đây tôi không chỉ nói về lợi thế của lao động giá rẻ. Các nước đang phát triển khác, bao gồm cả các nền dân chủ, cũng có lợi thế đó. Tôi đang nói về một lợi thế cấu trúc có được nhờ hiệu quả trong các vấn đề như cắt giảm thủ tục hành chính rườm rà, tịch thu đất đai và tài sản, bỏ qua các rủi ro môi trường và đàn áp các khiếu nại. Các nền kinh tế thuộc thế giới thứ nhất, nơi vừa cung cấp vốn đầu tư vừa tạo ra thị trường cho sản phẩm, có thể bị ràng buộc vào quan hệ cộng sinh với các nền kinh tế nhân quyền thấp.
Vào những năm 1990, khi nền kinh tế Trung Quốc trên đà bùng nổ, tôi đang làm việc trong một cộng đồng các học giả bao gồm cả những cố vấn cho lãnh đạo cấp cao. Khi đó, người ta bàn luận rất nhiều về “lợi thế của chúng ta.” Một đồng nghiệp đã cho tôi xem riêng một bài viết mà ông ấy đang chuyển lên cho chính quyền. Bài viết nói rằng Trung Quốc ngày nay không có lợi thế so sánh nào về tài nguyên thiên nhiên hay công nghệ; lợi thế so sánh của chúng ta nằm ở “một hệ thống lao động gần như nô lệ.” (Vâng, cụm từ gây sốc đó thực sự đã được sử dụng, và vẫn còn in đậm trong ký ức của tôi.) Đồng nghiệp của tôi lập luận rằng chúng ta nhất định phải giữ vững lợi thế này, và vì lẽ đó, chúng ta phải chống lại việc du nhập các ý tưởng phương Tây về quyền của công nhân và nông dân.
Những đồng nghiệp khác của tôi thì giới thiệu lý thuyết về “chi phí giao dịch giảm,” mà họ đã phỏng theo khái niệm của nhà kinh tế học người Anh Ronald Coase. Một ví dụ từ Trung Quốc là cách nhà nước thu mua ngũ cốc từ nông dân vào những năm 1950. Ban đầu, việc trao đổi được thương lượng với từng hộ trong một quá trình có “chi phí giao dịch” rất lớn. Vài năm sau, khi nông dân được đưa vào “công xã nhân dân” và mùa màng trở thành “tập thể” chỉ sau một đêm, nhà nước chỉ đơn giản là lấy bao nhiêu tùy thích và thế là xong. Không cần tốn thời gian thương lượng.
Trong nền kinh tế “cải cách” thời Đặng Tiểu Bình, việc chuyển đổi tức thời tài sản tư nhân thành tài sản công này được phản ánh bằng một sự chuyển đổi tương tự từ tài sản công sang tài sản tư nhân. Chỉ cần một chỉ thị từ cấp trên là đủ để cho phép quản lý của một “đơn vị công tác” (nhà máy, mỏ, nhà máy điện,…) chuyển hướng nguồn lực công sang sử dụng cho doanh nghiệp tư nhân của mình. Những sự chuyển đổi này không giống với khái niệm “loại bỏ chi phí giao dịch” mà Ronald Coase đề cập, nhưng chúng đã phơi bày một thực tế quan trọng: Trung Quốc có một “lợi thế so sánh” rất lớn so với nền kinh tế của các nước dân chủ.
Hai trong số những công cụ kinh tế quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là tịch thu đất đai và bóc lột lao động di cư. Hàng chục triệu hộ gia đình Trung Quốc đã bị thu hồi đất hoặc phá dỡ nhà cửa mà không có quyền khiếu nại; “lợi thế” này đã dẫn đến sự bùng nổ ấn tượng trong ngành xây dựng và bất động sản. Hàng trăm triệu lao động nông dân di cư không có hộ khẩu tại các thành phố, và do đó phải sống mà thiếu chăm sóc y tế, giáo dục con cái, và các quyền khác của cư dân hợp pháp. Năm 2017, báo chí chính thức bắt đầu gọi những người này là “nhân khẩu tầng thấp” (diduan renkou, đê đoan nhân khẩu) – những người mà khu phố của họ có thể bị “dọn dẹp” nếu trở nên mất mỹ quan. Về mặt xã hội, họ thuộc tầng lớp “thấp,” nhưng về mặt kinh tế, họ lại không thể thiếu.
Yếu tố then chốt: Cộng sinh với các nền kinh tế phát triển
Điều mà tôi gọi là “lợi thế nhân quyền thấp” xuất hiện khi một nền kinh tế sử dụng lao động kiểu nô lệ liên kết trong một hệ thống với một nền kinh tế hiện đại tiên tiến hơn. Điều này khác với trường hợp đơn giản hơn của các nền kinh tế biệt lập dựa vào lao động giá rẻ – chẳng hạn như châu Âu thời trung cổ với nông nô, hoặc Trung Quốc thời Mao Trạch Đông, hoặc Triều Tiên ngày nay. Thay vào đó, tôi đề cập đến các hệ thống cộng sinh, trong đó một nền kinh tế giàu có cung cấp vốn và bí quyết kỹ thuật ở một đầu và thị trường cho sản phẩm ở đầu kia, trong khi đối tác “có nhân quyền thấp” cung cấp lao động giá rẻ và một chính phủ chuyên chế để duy trì sự ổn định. Cả hai bên đều được hưởng lợi – chí ít là trong giai đoạn đầu. Nhưng theo thời gian, đối tác giàu có trong quan hệ cộng sinh này có nguy cơ bị suy yếu.
Sự liên kết giữa nền kinh tế Trung Quốc và Mỹ trong những thập kỷ gần đây là một ví dụ điển hình, nhưng còn nhiều ví dụ khác nữa. Nhà sử học kinh tế người Mỹ Robert Fogel chỉ ra rằng nền kinh tế nô lệ ở miền Nam nước Mỹ trước Nội chiến ít nhất cũng hiệu quả về mặt kinh tế như nền kinh tế liên kết cộng sinh ở miền Bắc. Dưới chế độ apartheid ở Nam Phi, hai nền kinh tế nội địa, một trong số đó tận dụng “lợi thế nhân quyền thấp,” đã liên kết với nhau. Các ví dụ khác là các nền kinh tế phi thị trường phát triển dưới thời Stalin và Hitler vào những năm 1930, cũng như “chế độ nông nô thứ hai” xuất hiện cùng sự phát triển nhanh chóng của nông nghiệp thương mại ở Trung và Đông Âu sau năm 1989.
Trong một cuộc tranh luận công khai với chính trị gia người Đức Hans Modrow năm 2009, tôi đã đề xuất một thí nghiệm tư duy được biết đến trong giới trí thức Trung Quốc với tên gọi “Ngụ ngôn Honecker.” Hãy tưởng tượng rằng Erich Honecker, lãnh đạo chuyên chế của Đông Đức từ năm 1971 đến năm 1989, âm mưu chiếm đoạt Tây Đức bằng cách tận dụng lợi thế nhân quyền thấp. Ông có thể chào đón nguồn vốn đầu tư của Tây Đức vào lao động giá rẻ bị giam cầm của Đông Đức để sản xuất hàng hóa bán ở Tây Đức với giá thấp hơn nhiều so với mức giá mà Tây Đức có thể cạnh tranh. Sau cùng, nền kinh tế Tây Đức sẽ suy yếu. Đông Đức sẽ phát triển mạnh mẽ, trong khi Tây Đức rơi vào hỗn loạn. Tây Đức sẽ chỉ còn ba lựa chọn: 1) xây một bức tường và tự cô lập mình; 2) hạ thấp các tiêu chuẩn nhân quyền của mình để ngang bằng với Đông Đức; và 3) (trường hợp xấu nhất) chứng kiến người dân Tây Đức nổi dậy chống lại “Đông Đức hóa” trong khi Honecker điều quân vào đàn áp cuộc nổi dậy và dọn dẹp tàn cuộc.
Liên kết hiện tại giữa nền kinh tế Trung Quốc và các nền dân chủ phương Tây chưa đi xa đến mức như trong Ngụ ngôn Honecker, nhưng đang có xu hướng đi theo hướng đó. Vì lợi nhuận, các công ty và chính phủ phương Tây đã nhắm mắt làm ngơ trước sự đàn áp của Trung Quốc. Để duy trì khả năng cạnh tranh, họ hạ thấp các tiêu chuẩn bảo vệ người lao động, môi trường và tài sản tư nhân. Như câu tục ngữ Trung Quốc “liệt tệ khu trục lương tệ” (tiền bẩn có thể đánh đuổi tiền sạch), các nền dân chủ càng tham gia vào trò chơi này lâu, thì họ càng trở nên mong manh – không chỉ về kinh tế, mà cả về chính trị và đạo đức. Niềm tin của phương Tây rằng “sự can thiệp của chúng ta sẽ làm thay đổi xã hội bên kia” đã bị đảo ngược.
Vậy phải làm gì? Trong quá khứ, Mỹ từng yêu cầu Đảng Cộng sản Trung Quốc tăng giá trị đồng tiền của mình, nhưng điều đó hầu như không mang lại hiệu quả. Gần đây, Mỹ đã tuyên bố áp thuế, nhưng kết quả vẫn chưa rõ ràng. Sự hỗ trợ của Mỹ dành cho Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (Voice of America) và Đài Á Châu Tự Do (RFA) tuy có những tác động tích cực, nhưng hai tổ chức này lại vừa bị đóng cửa. Về mặt lý thuyết rộng nhất, giải pháp duy nhất cho vấn đề này là đưa nhân quyền của người dân Trung Quốc đến gần hơn với các tiêu chuẩn toàn cầu. Chừng nào “toàn cầu hóa” chỉ có nghĩa là toàn cầu hóa kinh tế, thì nền kinh tế thế giới (chứ không chỉ khía cạnh đạo đức của nó) có thể sẽ phải đối mặt với những vấn đề lớn và thậm chí là thảm họa.
Điều gì sẽ xảy ra nếu Trung Quốc từ bỏ “lợi thế nhân quyền thấp” – chẳng hạn bằng cách dựa vào tiêu dùng nội địa thay vì thị trường xuất khẩu? Phải chăng kết quả sẽ là thảm họa? Trong ngắn hạn, nền kinh tế nước này chắc chắn sẽ chậm lại, nhưng hồ sơ của Ấn Độ và các nền dân chủ có mức lương thấp khác cho thấy rằng “lợi thế nhân quyền thấp” không phải là điều kiện cần thiết để một quốc gia đạt được tiến bộ. Kết quả vẫn sẽ tốt hơn, cả trong nội bộ Trung Quốc và trong quan hệ với thế giới, so với việc tiếp tục con đường hiện tại.
“Ngọn hải đăng” xuống cấp
Khi giới trí thức tự do ở Trung Quốc chỉ mới hào hứng với chính sách “cải cách và mở cửa” của Đặng Tiểu Bình vào những năm 1980, thì Mỹ đã được xem như một “ngọn hải đăng” – một điểm tham chiếu vững chắc mà người ta có thể hướng tới ngay cả khi họ biết rằng một phần của mô hình rực rỡ đó có thể được xây dựng từ hy vọng hão huyền.
Trong hai thập kỷ qua, ngọn hải đăng ấy đôi khi chập chờn lúc tỏ lúc mờ và có lẽ không hoàn toàn đáng tin cậy. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đến như một cú sốc, và theo sau là các vấn đề như thông tin sai lệch trên mạng và sự phân cực chính trị, vốn không phải là những gì người ta mong đợi từ một ngọn hải đăng. Mỹ tỏ ra yếu thế hơn trên trường quốc tế – không chỉ không chắc chắn về cách xử lý Trung Quốc, đối thủ mà giờ đây họ có vẻ kém tự tin hơn về lợi thế của mình, mà còn rụt rè trước các đối thủ như Nga và (cho đến gần đây) Iran, những bên mà họ rõ ràng nắm giữ lợi thế. Vai trò của chính sách xoa dịu trong tư duy phương Tây trở nên nổi bật hơn bất kỳ lúc nào kể từ Thế chiến II.
Một phần vấn đề nằm ở liên hệ cộng sinh giữa phương Tây với nền kinh tế và lợi thế nhân quyền thấp của Trung Quốc. Áp lực cạnh tranh đã khiến các công ty phương Tây chấp nhận các tiêu chuẩn nhân quyền thấp hơn. Cuộc khủng hoảng COVID-19 đã cho thấy rõ ràng những “lợi thế” mà chế độ ĐCSTQ có thể tận dụng: họ có thể nói dối thế giới, nói dối người dân của mình, và phong tỏa người dân một cách tàn nhẫn. Bất chấp những khủng hoảng trong nước, họ vẫn có thể vượt qua một phương Tây hoang mang, và tái khẳng định khả năng cạnh tranh kinh tế, đồng thời áp dụng lập trường chính trị hung hăng hơn. (Nếu tất cả những điều đó vẫn chưa đủ, thì đại dịch còn làm dấy lên quan ngại đáng sợ về chiến tranh sinh học.)
Những điều chưa hiểu rõ
Sự hiểu lầm của phương Tây về cách Trung Quốc vận hành không chỉ nằm ở các chi tiết mà đôi khi còn ở các khái niệm cơ bản. Có nhiều ví dụ, nhưng đây là một trong số đó: Vào đầu những năm 2000, các nhà ngoại giao Mỹ bắt đầu lập luận tại các cuộc họp WTO rằng Trung Quốc phải giảm trợ cấp nông nghiệp xuống 8,5% để phù hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế. Sau cùng, các nhà ngoại giao này cũng thành công. Nhưng dường như họ vẫn không biết rằng trợ cấp nhà nước cho nông nghiệp ở Trung Quốc đã là một con số âm kể từ năm 1949. Ở Trung Quốc, nông dân luôn trợ cấp cho nhà nước, chứ không phải ngược lại.
Tương tự, tôi lo rằng hiếm có người phương Tây nào thực sự hiểu được cơ chế hoạt động của cái mà tôi gọi là “lợi thế nhân quyền thấp.” Những người lạc quan ở phương Tây có xu hướng cho rằng các nền kinh tế tự do sẽ luôn thắng thế, vì các nền kinh tế bị kiểm soát thường yếu về đổi mới sáng tạo, vốn cần cạnh tranh để phát triển, và cũng yếu về tiêu dùng nội địa vì người dân không được tự do. Nhưng Trung Quốc ngày nay đã sử dụng các đối tác cộng sinh ở phương Tây để giảm thiểu cả hai vấn đề này: phương Tây thực hiện việc đổi mới và Trung Quốc đánh cắp nó, và phương Tây cung cấp một lượng lớn người tiêu dùng khiến cho tiêu dùng nội địa của Trung Quốc trở nên không quan trọng.
Người phương Tây nói rằng họ phải tránh một cuộc Chiến tranh Lạnh mới mà không nhận ra rằng họ đã ở trong một cuộc chiến như vậy rồi. Cuộc chiến này vừa lạnh lẽo hơn, vừa mang tính chiến tranh hơn cả Chiến tranh Lạnh cũ. Trong cuộc chiến cũ, hàng chục triệu người có thể chết vì nạn đói ở Ukraine và Trung Quốc mà không hề ảnh hưởng đến các tiêu chuẩn nhân quyền cao ở Mỹ. Vào thời đó, khi Stalin và Mao nói về “cách mạng thế giới,” họ hình dung (dù có vẻ viển vông) rằng nó sẽ xảy ra bằng bạo lực hoặc mưu mẹo. Họ chưa bao giờ mơ rằng mình có thể sử dụng “diễn biến hòa bình” chống lại phương Tây – chính là chiến lược mà họ nghĩ rằng phương Tây đang sử dụng để chống lại họ vào thời điểm đó. Nhưng giờ đây, một điều rất giống với việc giải thể phương Tây trong hòa bình đang diễn ra.
Trong chính trường Mỹ hiện nay, cả cánh tả và cánh hữu đều sử dụng những từ ngữ và khái niệm chỉ phù hợp một cách gượng ép với tình trạng của người dân Trung Quốc, những người đang phải chịu đựng sự thiếu hụt nhân quyền. Cánh tả Mỹ phản đối “chủ nghĩa tân tự do,” thay vào đó kêu gọi cải thiện phúc lợi cho người lao động, trong khi cánh hữu lên án “chủ nghĩa xã hội,” kêu gọi tự do hơn. Cả hai bên đều không hiểu đầy đủ rằng những người bị tước đoạt quyền ở Trung Quốc thiếu cả tự do lẫn phúc lợi. Một số người Mỹ ủng hộ “chủ nghĩa đa văn hóa” mà không nhận ra các phương pháp của chủ nghĩa chuyên chế và chủ nghĩa duy tâm cực đoan có thể làm xói mòn một hệ thống dân chủ như thế nào.
Ngày nay, những người ủng hộ mạnh mẽ lý thuyết “thuế quan là tuyệt vời” có mục đích là giữ cho Mỹ ở vị trí số 1, bất kể điều gì xảy ra ở những nơi khác. Họ có thể chấp nhận lợi thế nhân quyền thấp và không nhận thức được rằng phương Tây đang ở trong (và đang thua) một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.
Không chỉ người Trung Quốc mới nhận thấy ngọn hải đăng đang lung lay. Người phương Tây cũng lo lắng về nền dân chủ của họ. Nhưng theo tôi, một số lo lắng của họ là không đúng trọng tâm. Ví dụ, họ có xu hướng đổ lỗi cho Donald Trump mà không xem xét những thay đổi xã hội đã tạo tiền đề cho chủ nghĩa Trump. Giới tinh hoa ĐCSTQ cũng mắc sai lầm tương tự khi nhìn vào sự sụp đổ của Liên Xô. Họ cho rằng thảm họa đó là do cá nhân Mikhail Gorbachev gây ra, chứ không phải do sự trì trệ kinh tế và chính trị đã xuống cấp trầm trọng dưới thời Leonid Brezhnev. Trump có thể được xem (và đôi khi được gọi ở Trung Quốc là) một “Gorbachev đảo ngược.” Quan điểm này cho rằng mỗi người trong số họ đang làm suy yếu hệ thống mà họ lớn lên – trong đó “đảo ngược” chỉ có nghĩa là thay đổi chính trị theo hướng ngược lại. Nhưng trong cả hai trường hợp, lời giải thích về “kẻ xấu” thật quá giản đơn. Liệu các chính trị gia Mỹ tiền nhiệm của Trump, những “Brezhnev đảo ngược,” có suy ngẫm kỹ lưỡng về những gì đang xảy ra trong xã hội dưới thời họ nắm quyền hay không?
Một sự đơn giản hóa quá mức khác ở phương Tây là quan điểm cho rằng internet không được kiểm soát là nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của nền dân chủ. Chắc chắn, việc tiếp nhận thông tin nhanh chóng trên truyền hình cáp và mạng xã hội là có vấn đề và dẫn đến sự nhầm lẫn và phân cực, nhưng từ góc nhìn của người Trung Quốc, internet đã mang lại nhiều lợi ích hơn là tác hại cho nền dân chủ. Khi internet du nhập vào Trung Quốc trong những năm 2000-2010, người dân đã hào hứng đón nhận nó, xem nó là phương tiện “khai sáng,” chứ không phải thứ gây nhầm lẫn. Đây là phương tiện truyền thông đầu tiên dưới chế độ cộng sản cho phép dân thường trở thành người gửi, chứ không chỉ là người nhận, dòng chảy thông tin. Ngôn luận trực tuyến đã dẫn đến những yêu cầu có tổ chức về các quyền, công lý, và chính phủ lập hiến – và điều đó, đến lượt nó, đã thúc đẩy chế độ kiểm soát internet một cách hà khắc. Những biện pháp kiểm soát đó phần lớn đã phát huy tác dụng – nhưng chính việc kiểm soát internet, chứ không phải bản thân internet, mới dẫn đến tình trạng dư luận mù mịt ở Trung Quốc ngày nay.
Dù nền dân chủ ở Mỹ đang đối mặt với những thách thức nào đi chăng nữa, thì chí ít internet vẫn tự do. Không có sự kiểm soát kiểu Trung Quốc nào đối với internet ở Mỹ. Nếu chúng ta cho rằng internet cho phép sự ngu dốt lan rộng trong quần chúng, chúng ta không nên đơn giản hóa rằng đó là vấn đề của internet hay của quần chúng. Bởi nó cũng là một phần vấn đề của tầng lớp tinh hoa tự cao tự đại, những người xem thường những gì xuất hiện trên internet và mất liên lạc với thực tế mà nó phản ánh.
Triển vọng
Cuốn sách của tôi có tựa đề “Cứu lấy ông Dân chủ,” nhưng thực tế thì tôi không tin rằng điều đó có thể thực hiện được. Ông Dân chủ, người từng là nhân vật đầy hứa hẹn đối với giới trẻ Trung Quốc trong thời kỳ “khai sáng” cuối những năm 1910 và đầu những năm 1920, giờ đây đã bắt đầu hiện ra như một ông già yếu đuối. Thế giới vẫn còn mải mê bàn luận liệu chúng ta có đang bước vào một cuộc Chiến tranh Lạnh mới hay không, nhưng phe dân chủ trong cuộc chiến đó dường như không nhận ra rằng họ đang thua cuộc.
Dĩ nhiên, kết quả của cuộc Chiến tranh Lạnh mới sẽ không phải là “cáo chung của lịch sử” như trường hợp của cuộc Chiến tranh Lạnh đầu tiên. Nhưng mối nguy trước mắt chúng ta không nên bị đánh giá thấp. Nếu hồi kết của Chiến tranh Lạnh cũ tạo ra ảo tưởng rằng nhân loại đang hướng tới hòa bình và dân chủ, để tất cả các bên có thể gác bỏ vũ khí của mình, thì chúng ta cần nhận ra rằng sự thất bại của nền dân chủ trong Chiến tranh Lạnh mới có thể dẫn đến điều ngược lại. Đó có thể là lời cảnh báo rằng một cuộc chiến nóng đã rất gần kề.
Nếu phân tích của tôi có vẻ bi quan, thì cũng xin được nói rằng tôi hy vọng mình sai. Ý thức về công lý tồn tại trong bản chất con người sẽ không dễ dàng thay đổi và sẽ luôn mang lại cho chúng ta lý do để hy vọng. Một trong những hy vọng của tôi là người khác có thể bác bỏ thành công quan điểm bi quan của tôi.
Tần Huy (Qin Hui) là giáo sư danh dự về lịch sử và kinh tế tại Đại học Thanh Hoa và là một trí thức công lỗi lạc của Trung Quốc. Ông là tác giả của cuốn sách mới (bằng tiếng Trung) “Cứu lấy ông Dân chủ.”
Perry Link là giáo sư danh dự về Văn học so sánh và tiếng Trung tại Đại học UC Riverside và là tác giả của nhiều cuốn sách về văn học, xã hội, và chính trị Trung Quốc.
