An ninh tập thể đang thoi thóp

Nguồn: Stephen M. Walt, “‘Collective Security’ Is on Life Support,” Foreign Policy, 16/12/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Một khái niệm cơ bản của quan hệ quốc tế đang chịu sức ép chưa từng có.

Đứng trước trật tự toàn cầu mong manh như hiện nay, người ta không thể không tự hỏi liệu khái niệm “an ninh tập thể” đã chết hay chưa. Câu trả lời phụ thuộc vào việc chúng ta hiểu thuật ngữ này như thế nào. Nếu an ninh tập thể có nghĩa là một hệ thống trong đó các cường quốc lớn trên thế giới từ bỏ việc sử dụng vũ lực để thay đổi hiện trạng và đồng ý đoàn kết lại để ngăn chặn bất kỳ quốc gia nào vi phạm cam kết này, thì an ninh tập thể không chết, vì một lý do đơn giản: nó chưa bao giờ thực sự tồn tại.

Phiên bản truyền thống của an ninh tập thể – được minh họa rõ nét nhất bởi Hội Quốc Liên được thành lập sau Thế chiến I – tìm cách vượt lên trên nền chính trị cường quyền bằng cách buộc các quốc gia cam kết giải quyết các bất đồng trong hòa bình, và hợp tác cùng nhau để ngăn chặn bất kỳ nước nào vi phạm nguyên tắc này. Thật không may, điều này giả định rằng những kẻ xâm lược nguy hiểm sẽ dễ dàng bị nhận diện và tất cả các quốc gia khác sẽ đồng thuận về danh tính của những kẻ đó. Nó còn giả định thêm rằng tất cả các cường quốc sẽ sẵn lòng hành động cùng nhau để ngăn chặn một kẻ xâm lược hùng mạnh – một việc làm tốn kém và nguy hiểm – ngay cả khi lợi ích riêng của họ không bị ảnh hưởng trực tiếp. Chắc chắn sẽ có những nước bị cám dỗ đứng ngoài cuộc và để người khác giải quyết vấn đề. Tóm lại, tầm nhìn về an ninh tập thể này phụ thuộc vào sự tin cậy và sự vị tha vốn hiếm hoi hoặc gần như không tồn tại nơi chính trường thế giới.

Nhưng còn một cách khác để định nghĩa an ninh tập thể – cụ thể là các thỏa thuận nhằm làm giảm khả năng xảy ra chiến tranh, hoặc các liên minh quân sự trong đó một nhóm các quốc gia hợp sức để răn đe hoặc đánh bại một mối đe dọa chung. Lịch sử đưa ra nhiều ví dụ như vậy. Thật không may, ngay cả những hình thức an ninh tập thể khiêm tốn hơn này cũng không thực sự hiệu quả và đang ngày càng kém hiệu quả hơn, theo đó khiến thế giới tương lai nguy hiểm hơn hẳn so với quá khứ gần đây.

Tuy vậy, những thỏa thuận an ninh tập thể tương đối thực tế từng tồn tại trong quá khứ vẫn đáng được xem xét kỹ lưỡng trong thời điểm hiện tại – dù chỉ là để hiểu tại sao chúng lại đang trong tình trạng nguy kịch.

Một hình thức hạn chế của thỏa thuận an ninh tập thể là “cơ chế an ninh,” nơi các đối thủ đồng ý hạn chế sự cạnh tranh của họ theo những cách hẹp và cụ thể. Các hiệp ước kiểm soát vũ khí như SALT và START là những ví dụ điển hình, và một vài trong số các biện pháp này thực sự đã giúp giảm nhẹ nguy cơ chiến tranh. Nhưng các thỏa thuận này không ngăn được các siêu cường chế tạo hàng nghìn vũ khí hạt nhân, hoặc chi hàng tỷ đô la để làm cho chúng có sức sát thương cao hơn. Chúng cũng không chấm dứt được cuộc cạnh tranh gay gắt giữa Liên Xô và phương Tây.

Triển vọng cho các thỏa thuận kiểm soát vũ khí kiểu này hiện không mấy sáng sủa, một phần vì số lượng các quốc gia cần tham gia đã tăng lên. Thế giới ngày nay là đa cực, chứ không còn lưỡng cực như thời Chiến tranh Lạnh, nghĩa là Trung Quốc phải tham gia thì việc kiểm soát vũ khí giữa các cường quốc mới có hiệu quả. Vẫn chưa có nỗ lực nào nhằm đạt được một thỏa thuận kiểm soát vũ khí liên quan đến Bắc Kinh, Moscow, và Washington, và Trung Quốc sẽ chẳng quan tâm đến việc hạn chế vũ khí cho đến khi bắt kịp hai nước còn lại. Thay vào đó, họ và một số quốc gia khác đang tăng cường kho vũ khí hạt nhân của mình, còn Nga và Mỹ đang hiện đại hóa lực lượng vũ trang để đáp trả, và một số quốc gia khác thì cân nhắc việc sở hữu lực lượng hạt nhân riêng. Những nỗ lực nhằm tạo ra các rào cản bảo vệ xung quanh trí tuệ nhân tạo hoặc vũ khí mạng cũng chẳng đi đến đâu; điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì việc thuyết phục tất cả các quốc gia liên quan đồng ý về các giới hạn có ý nghĩa là một nhiệm vụ vô cùng khó.

Hình thức hạn chế thứ hai của an ninh tập thể là gìn giữ hòa bình. Khi hai hoặc nhiều bên tham chiến quyết định làm hòa, lực lượng gìn giữ hòa bình trung lập sẽ được triển khai để giám sát thỏa thuận và trấn an mỗi bên. Nhưng cần lưu ý rằng kế hoạch này chỉ hiệu quả nếu các nhóm từng tham chiến thực sự muốn ngừng bắn và tuân thủ quyết định đó, vì lực lượng gìn giữ hòa bình thường quá yếu để ngăn cản một quốc gia hoặc một lãnh chúa quyết định cầm súng trở lại. Gìn giữ hòa bình là một công cụ hữu ích, nhưng tự thân nó không thể ngăn chặn chiến tranh.

Hình thức cuối cùng và hiệu quả nhất của an ninh tập thể – chính xác hơn nên được mô tả là “phòng thủ tập thể” – là liên minh quân sự. Các quốc gia đối mặt với mối đe dọa chung có thể tự bảo vệ mình tốt hơn bằng cách đồng ý giúp đỡ lẫn nhau và điều phối công tác chuẩn bị quân sự để ngăn chặn một quốc gia đe dọa tấn công họ, hoặc đánh bại quốc gia đó nếu họ tấn công. Các liên minh dễ hình thành nhất khi có một quốc gia hùng mạnh và được trang bị vũ khí tốt ở gần đó, và quốc gia này luôn có vẻ sẵn sàng sử dụng vũ lực để thay đổi hiện trạng. Trong tình huống ấy, mối đe dọa từ kẻ xâm lược tiềm tàng sẽ trở nên rõ ràng đối với những nước khác và cho họ đủ lý do để đoàn kết chống lại hiểm nguy. Logic đó giải thích tại sao NATO được thành lập năm 1949; tại sao Mỹ lại liên minh với Nhật Bản, Hàn Quốc, và các quốc gia châu Á khác trong Chiến tranh Lạnh; và tại sao một liên minh lớn lại tập hợp để đẩy Iraq ra khỏi Kuwait trong Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất.

Xu hướng các quốc gia hợp sức chống lại các mối đe dọa bên ngoài cũng được thể hiện qua cách mà Mỹ và phần lớn châu Âu tập hợp để hỗ trợ Ukraine sau khi Nga xâm lược vào tháng 02/2022. Nhưng điều đó cũng giải thích tại sao Trung Quốc và Triều Tiên lại dành cho Nga sự hỗ trợ đáng kể khi cuộc chiến đó trở nên kéo dài. Trường hợp Ukraine cũng nhắc nhở chúng ta rằng các thỏa thuận phòng thủ tập thể không phải lúc nào cũng ngăn chặn được chiến tranh bởi răn đe đôi khi cũng thất bại.

Các thỏa thuận phòng thủ tập thể hoạt động rất hiệu quả trong Chiến tranh Lạnh vì cả hai bên đều hiểu rõ rằng việc sử dụng vũ lực ở châu Âu sẽ dẫn đến một cuộc chiến rộng lớn và tàn khốc giữa hai liên minh hùng mạnh. Trước viễn cảnh thảm khốc đó, hai bên đã khôn ngoan lựa chọn không gây chiến.

Thật không may, chúng ta không thể trông cậy vào sự ổn định và khả năng dự đoán tương tự như trong quá khứ, bởi hiện nay có rất ít sự đồng thuận về việc quốc gia nào gây ra mối đe dọa lớn nhất, hoặc cách tốt nhất để đối phó với những mối đe dọa đó. Ví dụ, ở châu Âu, một số quốc gia xem Nga là kẻ xâm lược không ngừng nghỉ, đang tìm cách xây dựng lại đế chế cũ và thống trị lục địa châu Âu, trong khi những quốc gia khác lại không chia sẻ quan điểm đáng báo động này. Hầu hết các quốc gia phương Nam toàn cầu đều không sợ Nga và vẫn tiếp tục giao dịch với Moscow, còn lập trường của chính quyền Trump về Nga thì liên tục thay đổi theo tuần. Tôi cũng xin nhắc các bạn rằng, dù NATO vẫn khẳng định Ukraine sẽ gia nhập liên minh vào một ngày nào đó, nhưng chưa có thành viên NATO nào sẵn sàng gửi binh lính của mình đến chiến đấu và hy sinh cho Ukraine.

Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ ngày càng tin rằng châu Âu nên tự chịu trách nhiệm về an ninh của mình, để Washington có thể tập trung vào việc kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc ở châu Á. Người châu Âu đôi khi nói về việc đóng vai trò chiến lược trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhưng không một quốc gia châu Âu nào có đủ năng lực quân sự để tạo ra sự khác biệt ở đó. Họ cũng không có lợi ích sống còn nào để làm vậy. Điều này có nghĩa là các lợi ích chiến lược của Mỹ và châu Âu đang ngày càng rẽ sang các hướng khác nhau, theo đó chắc chắn sẽ làm suy yếu NATO ngay cả khi liên minh vẫn còn vẹn nguyên về mặt hình thức.

Tuy nhiên, sức mạnh và tham vọng trỗi dậy của Trung Quốc lại đang dần hiện rõ trước các nước láng giềng châu Á, và hiển nhiên cả với Mỹ. Nhưng những nỗ lực thành lập một liên minh để cân bằng quyền lực đã bị cản trở bởi các chính sách thất thường của Mỹ đối với khu vực; bởi mong muốn duy trì quan hệ hữu nghị với Trung Quốc do tầm quan trọng của nước này đối với nhiều nền kinh tế châu Á; bởi sự cạnh tranh giữa các cường quốc châu Á khác nhau; và bởi mong muốn của mỗi quốc gia là để các nước khác gánh vác trách nhiệm đối đầu với Trung Quốc trong khi họ “khoanh tay đứng nhìn.” Kết quả là sự bất định ngày một lớn về việc ai sẽ làm gì khi khủng hoảng xảy ra, do đó mở đường cho những tính toán sai lầm. Chẳng hạn, hoàn toàn có khả năng Australia, Nhật Bản, Mỹ, và một số nước khác sẽ hỗ trợ Đài Loan trong trường hợp hòn đảo bị Trung Quốc tấn công, nhưng cũng có khả năng một vài trong số họ hoặc tất cả sẽ đứng ngoài cuộc. Tóm lại, dù có một liên minh cân bằng quyền lực ở châu Á nhắm vào Trung Quốc, nhưng nó có lẽ không đủ sự gắn kết và uy tín để ngăn Trung Quốc thực hiện tham vọng bá chủ khu vực.

Cuối cùng, dù các quốc gia tạo ra các liên minh chủ yếu để đối phó với các mối đe dọa bên ngoài, nhưng thỏa thuận sẽ mạnh hơn khi các thành viên chia sẻ những giá trị tương đồng, và đặc biệt là các giá trị cốt lõi của nền dân chủ tự do. Thật không may, những giá trị chung từng gắn kết phương Tây đang dần tan biến. Hồi cuối Chiến tranh Lạnh, nhiều người từng tin rằng dân chủ tự do là làn sóng của tương lai; thay vào đó, nó đã liên tục thoái trào trong gần hai thập kỷ, khi các chính phủ chuyên chế nổi lên ở khắp nơi, từ Ai Cập, Hungary, đến Ấn Độ, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, và vâng, có lẽ ngay cả ở Mỹ. Anh đã rời Liên minh châu Âu, còn Hungary và Slovakia phản đối nhiều nguyên tắc của khối này; và Chiến lược An ninh Quốc gia của Nhà Trắng vừa được công bố gần đây cho thấy rõ rằng chính quyền Trump đang tích cực thù địch với các nguyên tắc tự do của EU và với nhiều chính phủ châu Âu.

Hơn nữa, châu Âu và Mỹ đang ngày càng chia rẽ về những việc cần làm ở Trung Đông. Mỹ đã viện trợ quân sự bổ sung hơn 22 tỷ đô la cho Israel trong lúc nước này tiến hành chiến dịch diệt chủng ở Gaza. Khi Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) truy tố Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Yoav Gallant về tội ác chiến tranh, cùng với một số lãnh đạo Hamas, Mỹ đã áp đặt lệnh trừng phạt đối với một số quan chức ICC. Ngược lại, ngày càng nhiều quốc gia châu Âu, bao gồm Anh và Na Uy, chính thức công nhận nhà nước Palestine và cam kết buộc các quan chức Israel phải chịu trách nhiệm về tội ác chiến tranh. Cam kết chung về nhân quyền hay công lý quốc tế nằm ở đâu trong những phản ứng khác nhau này? Điều đáng chú ý là Anh, quốc gia từ lâu đã là đồng minh và đối tác tình báo thân cận nhất của Mỹ, gần đây vừa đình chỉ một số loại hình chia sẻ thông tin tình báo với Mỹ vì London không muốn bị liên lụy vào các cuộc tấn công bất hợp pháp và tàn bạo của chính quyền Trump nhắm vào các tàu nhỏ ở vùng biển Caribbean. Có lẽ đó chỉ là một vấn đề nhỏ, nhưng lại là một dấu hiệu khác cho thấy sự đồng thuận đang giảm sút về những hành động nào là hợp pháp hoặc phù hợp với các giá trị cốt lõi của phương Tây.

Điều tôi muốn nói là những giá trị chung sẽ không củng cố các liên minh được lập ra vì lý do cân bằng quyền lực, hoặc giúp các quốc gia thành viên vượt qua những lợi ích chiến lược khác biệt.

Vậy bạn nên rút ra kết luận gì từ phân tích có phần bi quan này? Tôi xin gợi ý ba điều. Thứ nhất, đừng đặt hy vọng vào phiên bản đầy tham vọng của an ninh tập thể: Nó chưa bao giờ hiệu quả trong quá khứ và cũng sẽ không hiệu quả trong tương lai. Thứ hai, chúng ta vẫn đang sống trong một thế giới nơi mỗi quốc gia phải dựa vào nguồn lực của chính mình để tồn tại và phát triển thịnh vượng; điều này không có nghĩa là họ không thể cải thiện an ninh bằng cách tìm kiếm những đối tác đáng tin cậy giúp họ đối phó với các mối nguy chung. Nhiệm vụ của ngoại giao là làm rõ những mối nguy đó là gì và xây dựng sự đồng thuận rộng rãi về cách ứng phó; thật không may, loại hình ngoại giao này hiện đang rất khan hiếm.

Thứ ba, việc tăng cường năng lực bản thân và xây dựng các liên minh vững mạnh không loại trừ những nỗ lực nghiêm túc nhằm giải quyết các xung đột hiện có, xoa dịu căng thẳng với các đối thủ, hoặc giảm thiểu các rủi ro cụ thể –  những nhiệm vụ được thực hiện tốt nhất bằng cách để các quan chức giàu kinh nghiệm và kiến thức tham gia đối thoại với đối thủ một cách có kỷ luật và minh bạch, thay vì thông qua các thỏa thuận hậu trường do những tay nghiệp dư tiến hành.

Nhưng xin đừng nhầm lẫn: Ngay cả những cách tiếp cận thực tế nhất đối với an ninh tập thể cũng không thể loại bỏ nguy cơ chiến tranh hoặc sự cần thiết để chuẩn bị cho khả năng đó. An ninh tập thể có thể chưa chết, nhưng chắc chắn nó cũng không còn “khỏe” nữa.

Bài luận này được chuyển thể từ bài phát biểu khai mạc tại Hội thảo Holberg năm 2025 ở Bergen, Na Uy, vào ngày 09/12. Các diễn giả khác bao gồm cựu Thủ tướng Anh Boris Johnson và Mary Kaldor đến từ Trường Kinh tế London. Sự kiện được điều hành bởi Stephen Sackur. Bạn có thể xem video Hội thảo Holberg năm 2025 tại đây.

Stephen M. Walt là chuyên gia bình luận của Foreign Policy và là giáo sư về quan hệ quốc tế tại Đại học Harvard.