
Nguồn: Justin Bronk, “America’s Drone Delusion”, Foreign Affairs, 15/12/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
Sau gần bốn năm chiến đấu, có lẽ không có khía cạnh nào trong cuộc chiến của Nga ở Ukraine thu hút sự chú ý của quân đội phương Tây nhiều bằng sự mở rộng nhanh chóng của chiến tranh drone. Kể từ năm 2023, cả hai bên đã triển khai hàng triệu drone bốn cánh giá rẻ trên khắp chiến trường. Ở một số khu vực tiền tuyến, những drone nhỏ này hiện gây ra tới 70% thương vong. Trong khi đó, Nga đang sử dụng hàng ngàn drone cảm tử chạy bằng cánh quạt Geran-2 và Geran-3 trong các cuộc tấn công tầm xa gần như hàng đêm vào các thành phố của Ukraine, trong khi Ukraine cũng dùng nhiều loại drone cảm tử của mình để thường xuyên tấn công các căn cứ, nhà máy và cơ sở hạ tầng năng lượng của Nga.
Chứng kiến những diễn biến này, nhiều chiến lược gia quốc phòng phương Tây đã đưa ra lời kêu gọi khẩn thiết về việc thay đổi các ưu tiên quân sự. Vào tháng 6, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký một sắc lệnh hành pháp nhằm đẩy nhanh việc sản xuất drone. Kể từ đó, Bộ Quốc phòng Mỹ (DoD) đã thực hiện nhiều thay đổi chính sách để tạo điều kiện tích hợp nhanh chóng các drone chi phí thấp vào kho vũ khí, và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Pete Hegseth đã kêu gọi Mỹ thiết lập “khả năng thống trị bằng drone”. Trong khi đó, ở khu vực tư nhân, các công ty phần mềm và AI đã đặt cược lớn vào việc phát triển công nghệ quân sự không người lái, như Anduril, Palantir và Shield AI, đang chạy đua giành các hợp đồng quốc phòng mới béo bở. Chắc chắn rằng các hệ thống máy bay không người lái nhỏ (UAS) đã thay đổi căn bản cách thức chiến đấu của bộ binh, và Lục quân cùng các bộ phận khác của lực lượng Mỹ đang bị tụt hậu về những khả năng này—và đáng lo ngại hơn là về công nghệ chống UAS—so với lực lượng Nga hoặc Trung Quốc.
Tuy nhiên, cho rằng việc mua sắm quy mô lớn các drone tích hợp AI sẽ giúp củng cố khả năng phòng thủ của Mỹ trước Trung Quốc là một nhận định sai lầm. Thứ nhất, những bài học từ cuộc chiến ở Ukraine—một cuộc chiến mang tính tiêu hao, không có hồi kết giữa hai lực lượng vũ trang chủ yếu tập trung vào chiến đấu trên bộ—thường không thể áp dụng trực tiếp cho các loại xung đột khác. Thực tế về kho vũ khí quân sự của Bắc Kinh và bản chất có khả năng xảy ra của bất kỳ cuộc đối đầu tiềm tàng nào ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cho thấy, một cuộc xung đột như vậy sẽ được quyết định bởi các yếu tố rất khác. Mặc dù sở hữu ngành công nghiệp drone lớn nhất và tiên tiến nhất thế giới, Trung Quốc trên thực tế lại đang ưu tiên các khí tài quân sự có người lái. Hàng năm, Quân đội Trung Quốc (PLA) sản xuất số lượng khổng lồ các máy bay chiến đấu hiện đại, tàu chiến lớn, và các hệ thống tên lửa tiên tiến phóng từ mặt đất, trên biển và trên không. Nếu Mỹ quá tập trung vào phát triển và mua sắm drone, Washington có nguy cơ đánh mất lợi thế mong manh còn lại so với PLA trong các khả năng không quân và hải quân tối tân, những khả năng sẽ đóng vai trò quyết định trong mọi xung đột tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Tại sao drone thống trị vùng Donbas?
Trong vài năm qua, các nhà phân tích quân sự và lãnh đạo ngành công nghiệp quốc phòng đều tập trung vào những bài học mà quân đội phương Tây được cho là nên rút ra từ khả năng phòng thủ đáng kinh ngạc của Ukraine trước Nga. Hệ quả của sự quan tâm này là sự bão hòa các sản phẩm và công nghệ quốc phòng mới đang được quảng bá cho quân đội phương Tây là có “tính chuyển đổi”, dựa trên những mô tả mơ hồ về việc sử dụng chúng trong chiến đấu ở Ukraine. Trên thực tế, nhiều hệ thống như vậy, đặc biệt là drone do phương Tây chế tạo từ các công ty khởi nghiệp công nghệ, đã tỏ ra không hiệu quả hoặc thậm chí thất bại hoàn toàn trên chiến trường trước chiến dịch tác chiến điện tử phổ biến khắp nơi của cả Nga và Ukraine, cùng với các điều kiện môi trường khắc nghiệt.
Tuy nhiên, một vấn đề lớn hơn là cuộc chiến ở Ukraine có nhiều đặc điểm sẽ không phù hợp với bối cảnh đối đầu giữa lực lượng Mỹ và Trung Quốc tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Cuộc xâm lược mặt đất của Nga vào Ukraine đã tạo ra các chiến tuyến dài hơn 965,61 km, từ tỉnh Kharkiv ở phía bắc đến Kherson ở phía nam, với quân số bố trí thưa thớt. Cả hai bên đều không giành được ưu thế trên không, khiến sức mạnh không quân trở nên kém quan trọng hơn nhiều so với các cuộc xung đột hiện đại khác. Vì cả các đơn vị thiết giáp và các đơn vị tinh nhuệ khác của Nga và Ukraine đều chịu tổn thất nặng nề trong giai đoạn đầu, nên không bên nào có khả năng tiến hành chiến tranh cơ động hiệp đồng binh chủng quy mô lớn kể từ giữa năm 2023. Kết quả là, cả hai đội quân buộc phải dựa nhiều vào các đơn vị bộ binh nhỏ, được tăng cường xe tăng, pháo binh và drone, để thực hiện các cuộc tấn công thăm dò qua bãi mìn nhằm vào các tuyến phòng thủ cố định. Tiến độ đạt được cực kỳ chậm chạp và tốn kém cho cả hai phía.
Trong những điều kiện này, các drone bốn cánh tầm ngắn, trọng lượng nhẹ, giá rẻ và được sản xuất hàng loạt đã chứng minh hiệu quả cực kỳ cao. Đặc biệt khi đạn dược và bệ phóng pháo thông thường cùng pháo phản lực tầm xa ngày càng trở nên khan hiếm, cả hai bên đã sử dụng drone giá rẻ để gây thiệt hại hao mòn và ngăn chặn việc tiếp tế cùng các động thái chiến thuật của kẻ thù trong phạm vi từ 9,6 km đến 19,3 km tính từ tiền tuyến. Đến năm 2024, chiến đấu ở tiền tuyến đã thực sự bị chi phối bởi số lượng drone ngày càng tăng cùng với sự phát triển không ngừng của các công nghệ mới như drone cáp quang và hệ thống dẫn đường hình ảnh đầu cuối hỗ trợ bằng AI. Tương tự, các biện pháp phòng thủ chống drone như lưới bảo vệ, gây nhiễu điện tử, và các loại đạn súng săn/pháo chuyên dụng đã trở nên thiết yếu và tiếp tục phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, nhiều hệ thống phòng thủ chống drone chủ động ở Ukraine đang bị quá tải do tính chất phân tán rộng rãi của các lực lượng trên tiền tuyến và sự hao mòn liên tục.
Mặc dù vậy, sự mở rộng của chiến tranh drone có lẽ không phải là yếu tố chính ngăn cản lực lượng Ukraine giữ các vị trí chủ chốt trước lực lượng Nga trong năm 2024 và 2025. Thay vào đó, chính hàng trăm quả bom lượn hạng nặng mà Nga thả xuống tiền tuyến hàng tuần bằng máy bay chiến đấu-ném bom Su-34. Những quả bom lượn nặng từ 500 đến 3000 kg này có thể phá hủy cả các vị trí chiến đấu kiên cố, nằm sâu và tiêu diệt binh lính ẩn nấp hiệu quả hơn nhiều so với drone nhỏ, trong khi đó Ukraine vẫn thiếu một phương tiện hiệu quả để đánh chặn các máy bay thả bom từ khoảng cách hơn 64,3 km dặm phía sau tiền tuyến. Drone gây ra phần lớn sự tiêu hao hàng ngày đối với bộ binh và phương tiện di chuyển tại và xung quanh tiền tuyến, nhưng các cuộc tấn công tập trung bằng bom lượn lại gây ra mối đe dọa lớn hơn nhiều đối với quân đội ẩn nấp. Các cuộc tấn công dồn dập bằng bom lượn của Nga vào các vị trí then chốt đã đặc biệt gây khó khăn cho quân đội Ukraine trong nỗ lực giữ các địa điểm chiến lược được phòng thủ kiên cố, chẳng hạn như thành phố trên đồi Chasiv Yar ở tỉnh Donetsk.
Sự khác biệt ở Thái Bình Dương
Trái ngược hoàn toàn với điều kiện tác chiến tại Ukraine, bất kỳ xung đột tiềm tàng nào giữa lực lượng Mỹ và Quân đội Trung Quốc sẽ diễn ra chủ yếu trên không và trên biển, với các cuộc giao tranh giữa lực lượng mặt đất có khả năng sẽ chỉ giới hạn ở các đảo then chốt như Đài Loan hoặc Senkaku (mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư). Trong bối cảnh này, thành công của Mỹ sẽ phụ thuộc vào khả năng nhanh chóng và liên tục triển khai hỏa lực trên không và trên biển mang tính quyết định đến các điểm nóng vào những thời điểm quan trọng. Điều này đòi hỏi việc phô diễn sức mạnh trên hàng ngàn dặm đại dương để đối phó với vô số mối đe dọa tên lửa, không quân và hải quân cực kỳ tiên tiến của Trung Quốc. Các chiến dịch như vậy sẽ cần nhân sự được huấn luyện chuyên sâu vận hành máy bay chiến đấu, máy bay ném bom và tàu chiến hiện đại, thực hiện các hành động hỗ trợ lẫn nhau trong các chiến dịch chung được đồng bộ hóa cẩn thận. Nói cách khác, cuộc xung đột này sẽ liên quan đến các loại lực lượng và trang thiết bị rất khác biệt so với những gì cả Ukraine hay Nga đang sử dụng trong cuộc chiến hiện tại.
Trong một cuộc xung đột ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, drone có thể vẫn đóng vai trò quan trọng trong các chiến dịch trên bộ và đổ bộ. Ví dụ, Đài Loan có thể hưởng lợi rất lớn từ khả năng triển khai hàng trăm nghìn, hoặc thậm chí hàng triệu, drone nhỏ để đẩy lùi lực lượng đổ bộ của PLA trên các bãi biển. Đồng thời, việc lực lượng Đài Loan sở hữu các khả năng chống drone để đánh chặn và gây nhiễu lâu dài các drone tự sát và drone giám sát của PLA từ đại lục hoặc từ các tàu ngoài khơi cũng là điều thiết yếu. Tuy nhiên, những hệ thống không người lái này sẽ vô dụng đối với Không quân và Hải quân Mỹ trong nỗ lực hỗ trợ yểm trợ trên không và, xa hơn là hỗ trợ hàng hải, vốn đòi hỏi phải triển kahi sức mạnh từ đảo Guam hoặc các căn cứ xa xôi khác của Mỹ.
Khoảng cách là một trở ngại lớn ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Thiếu sót lớn nhất của thế hệ máy bay chiến đấu “tinh xảo” hiện tại của Mỹ, gồm F-22, F-35 và F/A-18E/F, trước các mối đe dọa ngày càng tăng của Trung Quốc không phải là việc chúng đắt tiền và số lượng ít. Mà chính là tầm hoạt động tương đối hạn chế của chúng. Với bán kính chiến đấu chỉ từ 563 đến 965 km, chúng cần máy bay tiếp nhiên liệu trên không để tiếp cận các khu vực tranh chấp từ các căn cứ khả thi, nơi mà khi chiến đấu, các máy bay tiếp dầu này sẽ phải bay đến gần một cách nguy hiểm với các mối đe dọa tên lửa và máy bay chiến đấu của Trung Quốc. Drone nhỏ không thể giải quyết vấn đề này. Ngay cả các drone góc nhìn thứ nhất (FPV) được trang bị cáp quang có tầm xa nhất đang được sử dụng phổ biến ở Ukraine cũng chỉ giới hạn khoảng 24 km, và hầu hết các FPV nhỏ đều có tầm hoạt động ngắn hơn đáng kể. Nói cách khác, hệ thống vũ khí đã làm cho chiến đấu ở Ukraine khác biệt đáng kể so với các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia trước đây sẽ gần như không liên quan trong các giai đoạn đầu quan trọng của một cuộc xung đột giữa lực lượng Trung Quốc và Mỹ.
Ngay cả khi drone nhỏ có thể được vận chuyển nhanh chóng đến các phạm vi cần thiết, không một loại drone nào hiện đang được cả Nga và Ukraine sử dụng có thể giúp bảo vệ lực lượng Mỹ một cách hiệu quả trước các cuộc tấn công của Trung Quốc. Bắc Kinh hiện đã vận hành hàng nghìn tên lửa đạn đạo, tên lửa siêu thanh và tên lửa hành trình cao cấp sẽ được dùng để tấn công các căn cứ tiền phương, tàu sân bay, máy bay tiếp nhiên liệu và các khí tài lớn quan trọng khác của Mỹ. Để đối phó với những mối đe dọa này, quân đội Mỹ chắc chắn phải dựa vào các hệ thống phòng thủ tên lửa trị giá hàng triệu USD như Patriot PAC-3 MSE, THAAD, SM-6 và SM-3. Tương tự, việc đánh chặn hàng trăm máy bay chiến đấu Trung Quốc ngày càng có khả năng cao sẽ đòi hỏi số lượng lớn các tên lửa không đối không tiên tiến như AIM-260 JATM, AIM-174B và AIM-120D AMRAAM. Những tên lửa này sẽ cần với số lượng lớn bất kể chúng được phóng từ máy bay chiến đấu có người lái hay, có thể trong tương lai, từ các hệ thống không người lái tích hợp AI. Drone nhỏ đơn giản là không thể đánh chặn máy bay chiến đấu hoạt động ở tốc độ và độ cao lớn.
Hơn nữa, nhiều loại hệ thống không người lái có khả năng hữu ích hơn ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương lại kéo theo chi phí rất lớn của riêng chúng. Ví dụ, Máy bay Chiến đấu Hợp tác (CCA) tàng hình—các máy bay chiến đấu không người lái tự động hoặc tích hợp AI được thiết kế để đi kèm và hỗ trợ các máy bay chiến đấu truyền thống—dự kiến có giá từ 20 triệu đến 30 triệu USD mỗi chiếc. Ngay cả các thiết kế ít tham vọng hơn, chỉ nhằm mục đích làm cảm biến tiên phong và “xe tải” phóng vũ khí, vẫn sẽ có giá hàng triệu USD. Mặc dù việc phát triển và áp dụng chúng có thể mang lại những lợi ích đáng kể, nhưng với mức chi phí này, chúng không thể được dùng để “tấn công bầy đàn” hay tiêu hao hàng loạt một cách thường xuyên.
Vận hành những hệ thống này cũng sẽ đòi hỏi một số lượng lớn nhân viên bảo trì, kỹ thuật viên vũ khí, chuyên viên hậu cần, nhân viên bảo vệ lực lượng và các chuyên gia khác để chuẩn bị cho chúng cất cánh, thu hồi sau khi sử dụng, duy trì và di chuyển chúng đến các địa điểm phóng trong khu vực tác chiến. Số lượng nhân sự này sẽ phải được điều chuyển từ các hoạt động khác. Hơn nữa, ngay cả CCA cũng sẽ không thay đổi căn bản vị thế của quân đội Mỹ so với PLA, bởi vì Trung Quốc cũng đang phát triển các hệ thống tương tự.
Các drone đơn giản hơn như drone cảm tử, mồi nhử hoặc gây nhiễu từ xa có thể được sản xuất với chi phí thấp hơn một chút và vẫn đóng vai trò quan trọng trong một gói tấn công chung phức tạp. Tuy nhiên, ngay cả những drone này cũng có khả năng tốn hàng trăm nghìn USD để đạt được tầm hoạt động và hiệu suất cần thiết. Dù hành vi tấn công bầy đàn được hỗ trợ bởi AI có thể tăng cường hiệu quả của các drone hoặc tên lửa này trong các tình huống chiến thuật khác nhau, nhưng liên kết dữ liệu và sức mạnh xử lý cần thiết sẽ tiếp tục làm tăng chi phí đơn vị, và do đó, số lượng sẽ vẫn bị giới hạn. Các vũ khí phục vụ những mục đích tương tự—tấn công thông minh tầm xa, mồi nhử và gây nhiễu tầm gần—đã tồn tại từ hàng thập kỷ dưới dạng tên lửa hành trình và mồi nhử như ADM-160 MALD-X. Vấn đề không phải là những công cụ hiện có này không thể thực hiện vai trò cần thiết, mà là Mỹ không có đủ số lượng.
Nan giải về số lượng trong chiến đấu
Đối với Mỹ, rõ ràng không thể tránh khỏi một cuộc xung đột lớn với đối thủ ngang hàng sẽ đòi hỏi nguồn lực rất khác so với các chiến dịch can thiệp ở nước ngoài và chống nổi dậy mà nước này đã tiến hành trong những thập kỷ gần đây. Trong bất kỳ cuộc đối đầu nào với Trung Quốc, quân đội Mỹ sẽ cần kho dự trữ khổng lồ đạn dược, phụ tùng thay thế, vật tư y tế và các nhu yếu phẩm hậu cần khác. Hiện tại, Washington đang thiếu hụt nghiêm trọng các loại tên lửa tấn công tầm xa, chống hạm và tên lửa đánh chặn chủ chốt, và hầu hết các đồng minh của họ thậm chí còn thiếu hụt ở mức độ lớn hơn. Cơ cấu lực lượng thông thường của Mỹ cũng đang thu hẹp và ngày càng lỗi thời, do hơn một thập kỷ trì hoãn hiện đại hóa không quân và hải quân trong suốt cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Chi phí khổng lồ để khôi phục “số lượng chiến đấu” bằng các hệ thống quân sự cao cấp truyền thống đã thúc đẩy một cuộc tìm kiếm gần như điên cuồng của nhiều nhà phân tích và hoạch định chính sách quốc phòng nhằm tìm ra một giải pháp để công nghệ tích hợp AI, bao gồm cả drone, có thể mang lại “số lượng giá rẻ”.
Ngược lại, PLA ngày càng sở hữu cả số lượng lớn và chất lượng cao. Điều đáng chú ý là, mặc dù sở hữu cơ sở công nghiệp sản xuất drone lớn nhất và tiên tiến nhất thế giới, trọng tâm quân sự chính của Trung Quốc lại là mua sắm thêm máy bay chiến đấu có người lái, tàu chiến lớn và các hệ thống tên lửa tiên tiến. Không quân Trung Quốc đang trên đà sở hữu phi đội khoảng 1.000 chiếc J-20—máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ năm chủ lực của Trung Quốc—vào năm 2030. Trung Quốc cũng đang sản xuất hàng trăm tên lửa chống hạm, tên lửa đất đối không và không đối không tầm xa tiên tiến, cùng hàng chục tàu khu trục và tuần dương hạm hiện đại mỗi năm. Đặc biệt trong lĩnh vực tên lửa không đối không và đất đối không, nhiều hệ thống này của Trung Quốc đang bắt đầu vượt trội hơn so với các hệ thống tương đương của Mỹ ở một số khía cạnh then chốt. Hầu hết sản lượng này được chuyển giao cho PLA thay vì xuất khẩu cho khách hàng như Pakistan, và phần lớn chúng có khả năng sẽ được triển khai trong bất kỳ nỗ lực nào của Trung Quốc nhằm chiếm Đài Loan, cũng như bất kỳ cuộc xung đột nào khác liên quan đến Bắc Kinh ở Biển Hoa Đông hoặc Biển Đông.
Để so sánh, mặc dù máy bay chiến đấu F-35 của Lockheed Martin đang được chế tạo với tốc độ cao hơn một chút so với J-20A và J-20S của Trung Quốc, nhưng chỉ một phần trong số đó được quân đội Mỹ mua lại. Cụ thể, Không quân Mỹ chỉ mua 48 chiếc F-35A vào năm 2025 và dự kiến mua ít hơn con số này trong mỗi năm còn lại của thập kỷ hiện tại. Mặc dù Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ đang mua các biến thể khác của máy bay này, nhưng phần lớn sản lượng hiện tại của Lockheed Martin lại được bán cho các đồng minh của Mỹ ở Châu Âu và Châu Á. Máy bay chiến đấu thế hệ tiếp theo F-47, dự kiến có giá hơn 300 triệu USD mỗi chiếc, sẽ không đi vào biên chế chính thức của Không quân Mỹ cho đến đầu thập niên 2030. Một chương trình thế hệ tiếp theo tương đương dành cho Hải quân Mỹ, gọi là F/A-XX, thậm chí còn ra mắt muộn hơn nữa, nếu chương trình được tiến hành. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, các máy bay thế hệ tiếp theo tương đương của Trung Quốc là J-36, J-XDS và J-50, vốn đã được thử nghiệm bay, cũng có khả năng sẽ đi vào hoạt động. Chúng có thể kém F-47 một chút về mặt kỹ thuật trên từng máy bay, nhưng rất có thể sẽ được sản xuất nhanh hơn và với số lượng lớn hơn.
Một lĩnh vực khác mà năng lực tối tân của Trung Quốc đang vượt trội so với Mỹ là máy bay cảnh báo sớm và hệ thống chỉ huy tầm xa trên không (AWACS). Các máy bay này là nhân tố gia tăng sức mạnh rất lớn, vì chúng cung cấp cho không quân và các lực lượng hỗn hợp khả năng giám sát radar tầm xa, diện rộng để cảnh báo sớm, quản lý không gian chiến đấu và chỉ thị mục tiêu. PLA đã sở hữu khoảng 60 máy bay AWACS hiện đại, tất cả đều được trang bị radar mảng pha quét điện tử chủ động (AESA) mới nhất cùng với các liên kết dữ liệu và khả năng thông tin vệ tinh tiên tiến để hoạt động như các nút mạng. Số lượng máy bay này vẫn đang được sản xuất thêm mỗi năm.
Ngược lại, Không quân Mỹ chỉ có 16 máy bay AWACS còn khả năng hoạt động, và đây là loại E-3G Sentry gần như lỗi thời và đã xuống cấp nghiêm trọng. Kế hoạch mua sắm Boeing E-7A Wedgetail để thay thế phi đội đang suy giảm nhanh chóng này đã bị Hegseth hủy bỏ vào tháng 6 năm 2025, với lý do chi phí vượt dự toán, sự chậm trễ và tính dễ bị tổn thương trong vận hành. Quốc hội đã bổ sung 400 triệu USD tiếp tục chương trình trong dự luật lưỡng đảng nhằm chấm dứt việc chính phủ Mỹ đóng cửa vào tháng 11, nhưng ngay cả khi chương trình này sống sót, nó có thể bị thu hẹp quy mô và vẫn phải đối mặt với sự chậm trễ đáng kể. Điều đó có nghĩa là Mỹ sẽ phải đối mặt với một khoảng cách về cảm biến trên không, khả năng kết nối mạng và quản lý chiến đấu trên không với Trung Quốc trong ít nhất một thập kỷ. Cả hai quốc gia đều đang theo đuổi các khả năng cảm biến và kết nối mạng dựa trên không gian tiên tiến, nhưng chúng vẫn chưa sẵn sàng để thay thế phạm vi bao phủ của AWACS.
Sự thật khó chấp nhận là không có câu trả lời dễ dàng nào cho thách thức từ khả năng quân sự, hàng hải và tên lửa đang phát triển của Trung Quốc tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Ở mức độ áp đảo, quân đội Mỹ phải dựa vào không quân và hải quân để răn đe đáng tin cậy sự hung hăng quân sự của Trung Quốc đối với Đài Loan hoặc các nơi khác. Không có cách nào để thay đổi toàn bộ cơ cấu lực lượng chung thành một cấu trúc hoàn toàn khác biệt kịp thời đối phó với mối đe dọa trong những năm tới. Cố gắng sao chép sự tập trung của Ukraine vào drone với quy mô lớn sẽ không giải quyết được vấn đề. Thay vào đó, các nhà hoạch định quân sự và chính trị Mỹ nên tập trung vào việc khắc phục những khoảng trống ngày càng lớn trong các lực lượng không quân và hàng hải thông thường hiện có. Để làm được điều này, Washington không có nhiều lựa chọn thay thế ngoài việc khẩn cấp đầu tư mạnh mẽ vào năng lực sản xuất lớn hơn nhiều và mua sắm nhanh chóng các loại tên lửa không đối không, đất đối không và không đối đất tầm xa hiện có, cũng như máy bay chiến đấu F-35, F-47, B-21 và tàu ngầm tấn công hạt nhân.
Để giải quyết những thiếu hụt nghiêm trọng này sẽ đòi hỏi phải tăng ngân sách lớn—điều khó có thể xảy ra trong môi trường hiện tại—hoặc cắt giảm mạnh ở các lĩnh vực khác trong cơ cấu lực lượng chung. Nhưng trừ khi Mỹ có thể duy trì ưu thế trên không và trên biển tại các khu vực tranh chấp trọng yếu, nếu không, toàn bộ cơ cấu lực lượng quân sự còn lại của nước này sẽ gặp khó khăn trong việc tạo ra sức mạnh chiến đấu phù hợp trước Trung Quốc trong bất kỳ cuộc đụng độ nào ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Hàng triệu drone bốn cánh chiến đấu và hàng chục nghìn drone tấn công cảm tử đã không giúp Nga đánh bại Ukraine, và ngược lại. Ngay cả khi Lầu Năm Góc mua sắm các năng lực tương tự, chúng cũng sẽ không thay đổi được cán cân quyền lực đang suy giảm nhanh chóng của Mỹ so với Trung Quốc ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, cho dù các đàn drone tích hợp AI có vẻ ấn tượng đến mức nào trên các slide trình chiếu.
JUSTIN BRONK là Nghiên cứu viên cao cấp về Không lực và Công nghệ tại Viện Nghiên cứu Các Quân chủng Hoàng gia Thống nhất.
