Công phu xây “kỳ quan” khách sạn và cái tên Caravelle
TTO – Sự thành công của khách sạn Caravelle thu hút sự chú ý của những đại gia trong ngành khách sạn hàng đầu trên thế giới.
Khách sạn Caravell trước năm 1975 – Ảnh: Tư liệu
Kiến trúc sư Nguyễn Văn Hòa, quê ở Cần Thơ, từng tốt nghiệp Trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương, tu nghiệp tại Hoa Kỳ đã được mời thiết kế tòa khách sạn nầy.
Kỹ thuật hiện đại nhứt
Ông Hòa cũng là người thiết kế nhà nghỉ của vua Bảo Đại ở Ban Mê Thuột. Vào đầu thập niên 1950, ông Hòa đã cùng hai người bạn thành lập một công ty xây dựng và đã xây dựng nhiều biệt thự, viện bào chế dược phẩm… ở Sài Gòn.
Để có được một công trình như ý, ông Hòa đã được toàn quyền thực hiện các ý tưởng của mình và sử dụng tất cả những kỹ thuật hiện đại nhứt thời đó để xây dựng khách sạn.
Ông đã thiết kế hệ thống phân phối nước nóng, nước lạnh, hệ thống điện, thang máy vận chuyển hàng hóa…
Tòa nhà gồm 2 khối A và B. Khối A được điều hòa không khí toàn bộ từ từng trệt đến từng 9, kể cả thang máy. Khối B cao năm từng là khu nhà cung cấp các tiện nghi cho khối A, chỉ có hệ thống điện và nước lạnh, nóng.
Hầm khối A gồm có phòng chứa hành lý của khách và hệ thống thoát nước, vệ sinh. Phía trên đó là từng trệt rộng có lối ra phòng khách, thang máy, phòng tổng đài điện thoại, sân, phòng điện thoại, phòng làm lạnh, hầm rượu và một phòng chứa thực phẩm dự trữ cho nhà hàng ở tầng 9.
Lầu một có 4 phòng ngủ với sảnh chờ, phòng tắm và chín phòng làm việc, một phòng rộng hình bầu dục và một phòng chứa thực phẩm. Từ từng 2 đến từng 6, mỗi từng đều có 13 phòng ngủ, một phòng chứa thực phẩm và một phòng bầu dục.
Từng thứ 7 dành riêng cho Tòa đại sứ Úc, gồm 2 căn hộ. Một căn hộ rộng lớn chỉ có một phòng ngủ. Căn hộ còn lại có ba phòng ngủ. Từng nầy còn có một khu vực gồm 6 phòng làm việc ngó mặt ra đường Đồng Khởi.
Từng thứ 8 có sáu phòng khách. Nhà hàng, khu vực làm bếp, phòng thực phẩm đông lạnh và các cơ sở phụ trợ khác nằm ở từng 9. Từng 10 là sân thượng rộng có thể ngó bao quát thành phố.
Cái tên Caravell
Sau khi xây dựng xong phần thô, việc trang trí nội thất mới là vấn đề. Tất cả các vật liệu dùng trong việc trang trí nội thất đều là hàng ngoại nhập. Ví dụ toàn bộ hệ thống lạnh đều nhập từ Mỹ. Ban đầu, người ta dự kiến khách sạn sẽ hoàn thành trong năm 1957 và đầu năm 1958 thì bắt đầu giao tầng 7 cho phía ngoại giao Úc.
Thế nhưng…
Do việc nhập cảng các vật liệu trang trí bị chậm trễ. Kiến trúc sư Hòa và viên quản lý Klimenco bị thúc hối. Và ông Klimenco đã đau khổ mà báo với các khách hàng rằng “khách sạn không thể hoàn thành trước tháng 3 hoặc tháng 4-1958” vì những yếu tố khách quan nằm ngoài sự kiểm soát của công ty. Riêng ông Hòa thì cam kết sẽ hoàn thành công trình vào ngày 6-4-1958.
Và ông Hòa đã thực hiện được lời hứa.
Nhưng thực tế mãi đến trước ngày giáng sinh năm 1959 khách sạn mới chánh thức được khai trương và trong khoảng thời gian một năm sau đó, nhiều hạng mục của khách sạn vẫn còn phải tiếp tục được điều chỉnh.
Ví dụ hãng hàng không Air France đến giữa năm 1960 vẫn còn đề nghị sửa đổi một vài chỗ ở từng trệt, nơi hãng nầy được độc quyền làm nơi giao dịch và bán vé máy bay của hãng.
Ở từng 7, luật sư của phái bộ ngoại giao Úc đề nghị rằng, những đối tượng cư ngụ ở từng 6 và 8 phải là đối tượng được thỏa thuận của họ.
Riêng ở từng 7 thì bọc lưới sắt bên trên bộ phận điều hòa không khí và cửa sổ. Còn ổ khóa cửa ra vào thì phải là loại đặt riêng theo yêu cầu. Phòng riêng của vị trưởng phái đoàn phải được cách âm hoàn toàn.
Một góc khách sạn Caravell ngày nay – Ảnh: Thuận Thắng
Dù vậy, sau khi khai trương, khách sạn Caravelle vẫn được mọi người đến đây hoan nghinh. Người ta ca ngợi hệ thống điện thoại của khách sạn, một điều mà vào thời ấy là một xa xỉ phẩm ở Sài Gòn, ca ngợi việc sử dụng một cách hào phóng đá hoa cương Ý lót sàn nhà, việc sử dụng lần đầu tiên tại Việt Nam loại kiếng chống đạn an toàn của Pháp và ca ngợi cả việc có một máy điện dự phòng khi cúp điện hiệu Berliet…
Việc đặt tên khách sạn cũng là một chuyện.
Khi việc xây dựng khách sạn bắt đầu vào năm 1957 thì hãng hàng không Pháp (Air France) đã bay thử nghiệm loại máy bay dân dụng tầm trung hiệu Caravelle (thuyền buồm) và khi khách sạn hoàn thành thì cũng là thời điểm mà hãng nầy đưa loại máy bay ấy vào sử dụng.
Vì là đồng sở hữu khách sạn và Air France cũng đặt trụ sở chánh tại đây nên cái tên Caravelle được lựa chọn làm tên khách sạn.
Khách sạn có 43 phòng và tất cả đều là phòng thượng hạng.
Sự thành công của khách sạn Caravelle đã thu hút sự chú ý của những đại gia trong ngành khách sạn trên thế giới.
Tháng 7-1962, tờ Times of Vietnam loan tin rằng đã có một hợp đồng xây dựng khách sạn Hilton được ký giữa khách sạn Caravelle và tập đoàn khách sạn Hilton.
Khách sạn mới nầy trên cơ sở mở rộng khách sạn Caravelle, xây thêm 159 phòng mới và sẽ có hồ bơi trên từng thượng.
Người thiết kế và thực hiện công trình cũng vẫn là ông Nguyễn Văn Hòa, mới tu nghiệp ở Hoa Kỳ về, và ông Lâm Ngọc Huân, nguyên biên tập viên tạp chí kinh tế Information Economique du Vietnam sẽ nhận nhiệm vụ quản lý.
Dự kiến cuối năm 1962 việc xây dựng sẽ bắt đầu nhưng có lẽ do có những lo lắng về tình hình chính trị ở Việt Nam nên dự án không được thực hiện.
Sau năm 1975, khách sạn bị đổi tên là Độc Lập không có ấn tượng với du khách. Năm 1992, Tổng công ty du lịch thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp với công ty Chains International Hotels Management Singapore Pte. Ltd để thành lập công ty Liên doanh Chains-Caravelle lập dự án nâng cấp khách sạn Độc Lập thành một khách sạn quốc tế cao 25 tầng và lấy lại tên cũ Caravelle.
Tuy nhiên, một trong đồng sở hữu của khách sạn là Giáo hội Công giáo ở thành phố Hồ Chí Minh đã không đồng ý việc đập bỏ khách sạn cũ để xây khách sạn mới “Nếu nhà nước thấy không cần sử dụng khách sạn nữa thì trả lại cho giáo hội”.
Vì vậy, khu khách sạn cao 9 từng vẫn để nguyên đấy và năm 1997 được nâng cấp để kết nối vào cao ốc 24 từng kế bên cùng mang tên khách sạn Caravelle.
TRẦN NHẬT VY – NGUYỄN VĂN NHẬT