Thế giới ‘hậu thực tế’ và mối đe dọa đối với dân chủ

Print Friendly, PDF & Email

Nguồn: Francis Fukuyama, “The Emergence of a Post-Fact World,” Project Syndicate, 12/01/2017.

Biên dịch: Ngô Việt Nguyên | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Một trong những diễn biến nổi bật nhất của năm 2016 và nền chính trị rất bất thường của năm là sự xuất hiện của một thế giới “hậu thực tế” (post-fact), nơi mà hầu hết các nguồn thông tin đáng tin cậy bị nghi ngờ và bị thách thức bởi những thực tế trái ngược có chất lượng và nguồn gốc mập mờ.

Sự trỗi dậy của Internet và World Wide Web vào thập niên 1990 được chào đón như một thời khắc của giải phóng và một điều có lợi cho nền dân chủ trên khắp thế giới. Thông tin là một dạng quyền lực, và nhờ thông tin trở nên rẻ hơn và dễ tiếp cận hơn, các cộng đồng dân chủ có thể tham gia vào những lĩnh vực mà trước kia họ bị loại trừ.

Sự phát triển của truyền thông xã hội vào đầu những năm 2000 dường như đã làm tăng tốc xu hướng này, cho phép sự huy động quần chúng vốn thúc đẩy các cuộc “cách mạng màu” dân chủ trên khắp thế giới, từ Ukraine đến Myanmar đến Ai Cập. Ở một thế giới của truyền thông đồng đẳng (peer-to-peer), những người gác cổng thông tin cũ, chủ yếu được xem là các quốc gia chuyên chế áp bức, có thể bị qua mặt.

Mặc dù câu chuyện tích cực trên có phần đúng, một câu chuyện khác, đen tối hơn cũng đã hình thành. Các thế lực chuyên chế cũ phản ứng một cách biện chứng, học cách quản lý Internet, như ở Trung Quốc, với hàng chục ngàn người kiểm duyệt, hay, như ở Nga, bằng cách tuyển mộ hàng quân đoàn troll (một dạng dư luận viên – NBT) và tung ra bot (robot mạng – NBT) để làm tràn ngập mạng xã hội bằng thông tin xấu. Những xu hướng này cùng nhau thể hiện một cách rất dễ thấy trong năm 2016, trong những cách tạo ra mối liên hệ giữa chính trị quốc tế và trong nước.

Kẻ thao túng truyền thông xã hội hàng đầu là Nga. Chính phủ nước này đã phát tán những điều sai trái trắng trợn như việc những người dân tộc chủ nghĩa Ukraine đóng đinh trẻ nhỏ, hay chính phủ Ukraine bắn rơi máy bay MH-17 vào năm 2014. Cũng những nguồn này đóng góp vào các cuộc tranh luận về sự độc lập của Scotland, Brexit, cuộc trưng cầu dân ý ở Hà Lan về thỏa thuận hợp tác giữa EU với Ukraine, thổi phồng bất cứ thực tế đáng ngờ nào có thể làm suy yếu các lực lượng ủng hộ EU.

Các chính quyền chuyên chế lấy thông tin xấu làm vũ khí đã đủ tệ, nhưng (tệ hơn là) việc làm này cũng bén rễ rất sâu trong chiến dịch tranh cử tổng thống ở Mỹ. Mọi chính trị gia đều nói dối, hoặc nói một cách độ lượng hơn, họ xoay sự thật theo hướng có lợi cho mình, nhưng Donald Trump đã đưa việc làm này đến những tầm cao mới chưa từng có. Nó bắt đầu vài năm trước với việc ông truyền bá quan điểm “birtherism,” cáo buộc Tổng thống Barack Obama không sinh ra ở Mỹ; Trump vẫn tiếp tục truyền bá điều đó ngay cả khi Obama đã công khai giấy khai sinh chứng minh mình sinh ra ở Mỹ.

Trong các cuộc tranh luận tranh cử gần đây, Trump nhấn mạnh rằng ông chưa bao giờ ủng hộ Chiến tranh Iraq và chưa bao giờ nói biến đổi khí hậu là trò lừa bịp. Sau cuộc bầu cử, ông khẳng định mình đã thắng cả phiếu bầu phổ thông (dù ông thua hơn hai triệu phiếu), do có sự gian lận bỏ phiếu. Đây đơn giản không phải là các sắc thái của sự thật, mà hoàn toàn là dối trá và có thể lật tẩy một cách dễ dàng. Việc ông khẳng định chúng đã đủ tệ; tệ hơn nữa là dường như ông không phải chịu hình phạt nào từ những cử tri Cộng hòa vì sự giả dối liên tục và trắng trợn của mình.

Giải pháp truyền thống cho thông tin xấu, theo những người vận động cho tự do thông tin, đơn giản là cung cấp thông tin tốt, những thông tin sẽ nổi lên hàng đầu trong một thị trường ý tưởng. Không may là giải pháp này kém hiệu quả hơn nhiều trong thế giới của truyền thông xã hội với troll và bot. Ước tính có đến một phần ba đến một phần tư những người sử dụng Twitter là thuộc dạng này. Internet đáng ra phải giải phóng chúng ta khỏi những người gác cổng; và đúng là giờ đây thông tin đến với chúng ta qua tất cả các nguồn có thể có, tất cả đều có độ tin cậy như nhau. Không có lý do gì để nghĩ rằng thông tin tốt sẽ thắng thông tin xấu.

Điều này nhấn mạnh một vấn đề nghiêm trọng hơn những lời dối trá riêng lẻ và ảnh hưởng của chúng lên kết quả bầu cử. Tại sao chúng ta tin vào thẩm quyền của bất kỳ thực tế nào, trong khi ít ai trong số chúng ta có khả năng chứng thực phần lớn chúng? Lý do là có những thể chế khách quan có nhiệm vụ cung cấp thông tin xác thực mà chúng ta tin tưởng. Người Mỹ lấy thống kê tội phạm từ Bộ Tư pháp, và dữ liệu thất nghiệp từ Cục Thống kê Lao động. Những hãng tin chủ lưu như tờ New York Times đúng là có thiên hướng chống Trump, nhưng họ có những hệ thống nhằm ngăn chặn những sai sót trắng trợn về thực tế xuất hiện trên ấn bản của mình. Tôi rất nghi ngờ việc Matt Drudge hay Breitbart News có những đội kiểm chứng thực tế để đảm bảo sự chuẩn xác của những tài liệu mà họ đăng trên trang web của mình.

Ngược lại, trong thế giới của Trump, mọi thứ đều bị chính trị hóa. Trong chiến dịch tranh cử, ông cho rằng Cục Dự trữ Liên bang của Janet Yellen đã làm việc cho chiến dịch của Hillary, cuộc bầu cử bị gian lận, các nguồn tin chính thức đã cố tình báo cáo không đầy đủ về tình hình tội phạm, và việc FBI từ chối truy tố Clinton phản ánh việc chiến dịch của bà đã làm tha hóa James Comey. Trump cũng từ chối chấp nhận thẩm quyền của các cơ quan tình báo đã lên án việc Nga tấn công hệ thống máy tính của Ủy ban Quốc gia Đảng Dân chủ. Và dĩ nhiên Trump và những người ủng hộ ông đã rất hào hứng bôi nhọ mọi tin tức của “truyền thông chủ lưu” là vô cùng thiên vị.

Việc không có khả năng đồng ý về những thực tế căn bản nhất là sản phẩm trực tiếp của một cuộc tấn công toàn diện lên các thể chế dân chủ – ở Mỹ, ở Anh, và trên toàn thế giới. Và đây là nơi mà các nền dân chủ đang hướng đến rắc rối. Ở Mỹ, đúng là đã có sự suy tàn thể chế thực sự, nhờ đó các nhóm lợi ích lớn có khả năng tự bảo vệ mình thông qua một hệ thống tài trợ tranh cử không giới hạn. Trọng tâm chính của sự suy tàn này là Quốc hội, và các hành vi xấu nói chung vừa hợp pháp vừa phổ biến. Vì thế dân thường có lý do để bất mãn.

Tuy nhiên, chiến dịch tranh cử ở Mỹ đã làm chuyển dịch nền tảng đến một niềm tin chung rằng mọi thứ đều bị gian lận hoặc chính trị hóa, và hối lộ trắng trợn đang tràn lan. Nếu giới quản lý bầu cử xác nhận rằng ứng cử viên mà bạn ủng hộ không phải là người thắng, hay nếu ứng cử viên kia dường như làm tốt hơn trong một cuộc tranh luận, thì đó phải là do một âm mưu phức tạp của bên kia nhằm làm sai lệch kết quả. Niềm tin về tính suy đồi của mọi thể chế đã dẫn đến một ngõ cụt là sự mất lòng tin ở mọi nơi. Nền dân chủ Mỹ, cũng như mọi nền dân chủ, sẽ không thể sống sót nếu thiếu lòng tin về khả năng tồn tại các thể chế khách quan. Khi thiếu lòng tin đó, cuộc đấu đá chính trị giữa các đảng phái sẽ bắt đầu lan tỏa đến mọi khía cạnh của đời sống.

Francis Fukuyama là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Stanford và giám đốc Trung tâm Dân chủ, Phát triển, và Pháp quyền. Cuốn sách gần đây nhất của ông là Political Order and Political Decay.

Copyright: Project Syndicate 2017 – The Emergence of a Post-Fact World
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]