Nguồn: Scott Straus (2005). “Darfur and the Genocide Debate”, Foreign Affairs, Vol. 84, No. 1 (Jan. – Feb.), pp. 123-133.>>PDF
Biên dịch: Dương Mai Hương | Hiệu đính: Phạm Thủy Tiên
Cái tên nói lên điều gì?
Tại khu vực Darfur thuộc miền tây Sudan, cuộc xung đột sắc tộc diễn ra từ tháng 2 năm 2003 đến nay đã cướp đi sinh mạng của hơn 70.000 người và buộc khoảng 1,8 triệu người phải di dời. Căn nguyên của cuộc xung đột này rất phức tạp và nhiều phần của bức tranh vẫn còn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, một số sự kiện quan trọng hiện đã được làm rõ. Thủ phạm chính của các vụ giết chóc và trục xuất là lực lượng dân quân gốc “Ả-rập” do chính phủ hậu thuẫn. Nạn nhân chủ yếu là những người da đen gốc Phi của ba bộ lạc. Cuộc khủng hoảng này hiện là thảm họa nhân đạo lớn nhất hành tinh.
Cuộc chiến đẫm máu ở Darfur đang thu hút rất nhiều sự chú ý. Tuy nhiên, các cuộc tranh luận công khai ở Mỹ và ở các nơi khác lại không tập trung vào việc làm sao để chấm dứt cuộc khủng hoảng này, mà thảo luận xem có nên gọi đây là “nạn diệt chủng” theo những khái niệm được quy định trong Công ước chống diệt chủng hay không. Việc sử dụng cụm từ này từ lâu được cho rằng sẽ châm ngòi cho các phản ứng quốc tế khác nhau.
Tháng 7 năm 2004, Quốc hội Mỹ đã thông qua một Nghị quyết gọi sự kiện Darfur là một tội ác diệt chủng. Sau đó, vào đầu tháng 9, sau khi xem xét kết quả của một cuộc khảo sát toàn diện do chính phủ tài trợ, ngoại trưởng Mỹ Colin Powell đã sử dụng thuật ngữ này và Tổng thống Mỹ George W. Bush cũng có hành động tương tự trong một bài phát biểu trước Liên Hiệp Quốc sau đó vài tuần. Đây là lần đầu tiên các quan chức cấp cao của Mỹ áp dụng thuật ngữ này cho một cuộc khủng hoảng đang diễn ra và viện dẫn tới Công ước. Vì vậy, sự kiện Darfur là một cuộc thử nghiệm hữu hiệu để xem liệu Công ước chống diệt chủng có từ 56 năm nay, vốn được soạn ra sau nạn diệt chủng Holacaust (của Đức Quốc xã đối với người Do thái), có thể thực hiện tốt hay không cam kết của mình là “sẽ không bao giờ có lần thứ hai” cho phép sự hủy diệt có chủ đích đối với một dân tộc, chủng tộc hay một tôn giáo.
Cho đến nay, Công ước vẫn chưa chứng tỏ được sức mạnh. Trái với mong đợi, Công ước này vẫn chưa thúc đẩy được các nỗ lực quốc tế can dự vào Sudan, dù liên tục được kêu gọi. Thay vào đó, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc yêu cầu tiến hành các nghiên cứu bổ sung đồng thời đưa ra lời đe dọa yếu ớt sẽ cấm vận kinh tế với ngành công nghiệp dầu mỏ đang phát triển của Sudan nếu Khartoum không chấp dứt bạo lực; tuy nhiên đã qua thời hạn mà Hội đồng đặt ra nhưng không hề có hành động nào được thực thi. Số người chết vẫn tiếp tục tăng lên mặc dù 670 quân lính của Liên minh Châu Phi đã được gửi đến khu vực này với sự hỗ trợ hậu cần từ phía Mỹ để giám sát thoả thuận ngừng bắn dường như không tồn tại, cùng các hỗ trợ nhân đạo. Các bài học từ Darfur, vì thế, vẫn ảm đạm. Bất chấp những lo ngại trong suốt một thập niên về sự thất bại của những hành động can thiệp vào Rwanda năm 1994, và mặc cho quyết định của Washington phá vỡ điều cấm kỵ về việc sự dụng từ “diệt chủng”, cộng đồng quốc tế một lần nữa cho thấy sự chậm chạp và không hiệu quả của mình đối với nạn giết người trên quy mô lớn với sự ủng hộ từ chính quyền. Thực tế ở Darfur cho thấy: việc bỏ công tranh cãi rằng có nên gọi những sự kiện này là “diệt chủng” hay không đã che lấp và thay thế một câu hỏi quan trọng hơn là làm thế nào để có những phản hồi hiệu quả với những hành động bạo lực trên diện rộng gây thiệt hại cho thường dân ở Sudan. Vấn đề đặt ra trước mắt là phải làm sao để chấm dứt tình trạng thảm sát này, với e ngại sẽ có thêm hàng chục ngàn người nữa thiệt mạng.
Những cái chết ở Darfur
Biết về bản chất cuộc xung đột sẽ giúp chúng ta hiểu thêm câu chuyện tại Darfur. Cuộc khủng hoảng ở miền tây Sudan là kết quả của những cuộc xung đột riêng biệt nhưng có liên quan đến nhau. Đầu tiên là cuộc nội chiến giữa những người Hồi Giáo, quân chính phủ ở Khartoum và hai nhóm nổi dậy ở Darfur mang tên Quân đội Giải phóng Sudan và Phong trào Công lý và Bình đẳng. Các nhóm nổi dậy xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 2 năm 2003, do bất bình vì Darfur bị Khartoum cách ly về kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, đã không có một cuộc phản công đáng kể nào từ phía chính phủ cho đến tháng 4 năm 2003, sau khi quân nổi dậy tiến hành một cuộc tấn công lớn vào một sân bay quân sự, phá huỷ nhiều máy bay và bắt cóc một vị tướng không quân. Khartoum đã đáp trả bằng cách trang bị vũ khí cho các lực lượng dân quân khẩn cấp và ra lệnh họ tiêu diệt quân nổi loạn. Lực lượng dân quân ban đầu được lập ra chỉ để thực hiện nhiệm vụ này, nhưng nhiều hành động bạo lực chống lại dân thường đã diễn ra sau đó.
Cuộc khủng hoảng ở Darfur còn có liên quan đến một cuộc xung đột thứ hai. Ở miền nam Sudan, nội chiến đã kéo dài hàng thập niên giữa phe chính phủ miền Bắc do người gốc Ả-rập chiếm đa số và những người da đen theo Kitô giáo và chủ nghĩa duy linh (Thuyết duy linh (animism) tin vào quyền lực siêu nhiên và cho rằng sau khi chết, linh hồn con người vẫn còn tồn tại cùng với thế giới của người sống – ND). Cuộc chiến đã ít nhiều ảnh hưởng đến Sudan suốt 11 năm, từ khi nước này độc lập khỏi Anh Quốc năm 1956, và đã cướp đi sinh mạng của khoảng hai triệu người kể từ năm 1983. Trong những năm gần đây, chính phủ và phong trào nổi dậy miền Nam đã cùng tham gia những cuộc hòa đàm toàn diện được đặt theo tên của Cơ quan phát triển liên chính phủ (IGAD) – tổ chức đứng ra dàn xếp tiến trình hòa bình này. Sau nhiều vòng đàm phán, hai bên đã tiến đến việc ký kết một thỏa thuận vào tháng 6 năm 2004, và các quan sát viên quốc tế hy vọng rằng cuộc chiến kéo dài ở Sudan cuối cùng cũng sẽ kết thúc.
Tuy nhiên, vấn đề Darfur chưa bao giờ được trình bày ở các cuộc thảo luận của IGAD, và quân nổi dậy Darfur đã quyết định tấn công, một phần để tránh việc họ bị đặt ra ngoài các sắp xếp chính trị mới trong tương lai. Nhiều người lo sợ rằng cuộc chiến có thể phá vỡ các thỏa thuận của IGAD: phiến quân miền Nam tỏ ra thận trọng trong việc ký kết thỏa thuận với một chính phủ đang tàn sát đồng bào của mình, và những người cứng rắn ở Khartoum đã viện dẫn tình trạng bạo lực để làm giảm hiệu quả các cuộc hội đàm IGAD mà họ cho rằng mang lại nhiều lợi ích cho phe miền Nam.
Khủng hoảng Darfur còn có nguyên nhân thứ ba: giống nòi bản địa. Với diện tích gần bằng bang Texas (Hoa Kỳ – ND), Darfur là vùng đất của khoảng 6 triệu người và vài chục bộ lạc. Nhưng khu vực này bị chia tách bởi hai nhóm chính: những người tự nhận là người da đen gốc Phi chủ yếu sống theo lối du cư nông nghiệp, và những người tự nhận là gốc Ả-rập chủ yếu là dân bán du mục sống bằng nghề chăn gia súc. Cũng như các xung đột sắc tộc khác, sự phân chia giữa hai nhóm người này không phải lúc nào cũng rõ ràng; nhiều nông dân cũng chăn nuôi gia súc, và sự phân biệt giữa người châu Phi và người Ả-rập cũng khá mờ nhạt. Tất cả người Sudan về cơ bản đều là người gốc Phi, người Darfur đều theo đạo Hồi và nhiều năm hôn phối giữa hai chủng tộc đã xoá mờ sự khác biệt rõ ràng về ngoại hình giữa người “Ả-rập” và “người Phi” da đen.
Tuy nhiên, sự chia rẽ là có thật, và các cuộc tranh chấp tài nguyên càng khiến tình hình tồi tệ hơn. Trong quá khứ, các tranh chấp đất đai giữa nông dân và những người chăn gia súc vào mùa khô đã được giải quyết một cách hoà bình. Nhưng hạn hán kéo dài và sự xâm lấn của sa mạc trong hai thập niên qua đã khiến các nguồn nước và đất canh tác trở nên khan hiếm hơn. Bắt đầu từ giữa những năm 1980, các chính phủ kế nhiệm đã châm ngòi rắc rối với việc ủng hộ và trang bị vũ khí cho các bộ lạc gốc Ả-rập, một phần để ngăn chặn phiến quân miền Nam có được một chỗ đứng trong khu vực. Kết quả là một chuỗi những cuộc xung đột tang thương vào cuối những năm 1980 và những năm 1990. Người gốc Ả-rập thành lập lực lượng dân quân, đốt làng mạc của những người gốc Phi và giết chết hàng ngàn người. Đến lượt người gốc Phi cũng hình thành nên các nhóm tự vệ với các thành viên sau này trở thành những người nổi dậy đầu tiên ở Darfur vào năm 2003.
Bạo lực trên diện rộng đã diễn ra vào giữa năm đó. Khatoum đã đáp trả lực lượng nổi dậy ở Darfur theo cùng một cách họ đã làm với cuộc xung đột ở miền Nam: trang bị vũ khí cho lực lượng dân quân khẩn cấp Ả-rập. Vì vậy, nhóm dân quân Janjaweed ra đời. Cái tên này, dịch sát nghĩa là “kẻ xấu trên lưng ngựa”, đã được chọn để gia tăng sự sợ hãi, và nhóm Janjaweed, chứa chấp cả những tội phạm bị kết án, đã nhanh chóng thành công. Khartoum hướng dẫn nhóm dân quân “tiêu diệt quân nổi loạn”, như tổng thống Sudan Omar al-Bashir đã thừa nhận trong một phát biểu tháng 12 năm 2003. Tuy nhiên những gì diễn ra sau đó là một chiến dịch bạo lực chủ yếu nhằm vào dân thường da đen gốc Phi, chủ yếu là những người xuất thân cùng bộ lạc với những phiến quân nòng cốt.
Các tổ chức nhân quyền, các cơ quan nhân đạo và Bộ Ngoại giao Mỹ đều có chung các kết luận đáng lưu ý về bản chất của cuộc xung đột. Lãnh đạo của Janjaweed đã thừa nhận lực lượng quân đội và lực lượng dân quân thường phối hợp tấn công. Trong một vài trường hợp, máy bay của chính phủ tiến hành thả bom trước khi dân quân tấn công, cướp phá các khu định cư và phá hủy làng mạc; chiến thuật này đã trở thành trung tâm của cuộc chiến. Cuối tháng 9, một quan chức Mỹ đưa ra báo cáo rằng 574 ngôi làng đã bị phá huỷ và 157 ngôi làng khác đã chịu tổn thất tính từ giữa năm 2003. Hình ảnh vệ tinh cho thấy rất nhiều khu vực ở Darfur đã bị thiêu trụi hoặc bỏ hoang. Phần lớn các cuộc tấn công xảy ra ở những ngôi làng không có sự hiện diện vũ trang của quân nổi dậy; có vẻ như chiến thuật của Khartoum là phá hủy nơi được cho là cơ sở hậu thuẫn cho quân nổi dậy – thường dân – nhằm ngăn chặn sự chiêu mộ thêm quân nổi dậy trong tương lai.
Các ghi nhận ở những thời điểm và địa điểm khác nhau đều cho thấy những kẻ tấn công tách riêng đàn ông để sát hại. Dẫu vậy, phụ nữ, trẻ em và người già cũng không được tha. Các nhân chứng cho hay họ đã tận mắt chứng kiến những kẻ tấn công đôi lúc giết hại cả trẻ nhỏ. Đối với phụ nữ, mối nguy hại lớn nhất là hãm hiếp; xâm phạm tình dục đã lan rộng trong cuộc xung đột này. Cướp bóc và phá hoại tài sản xảy ra thường xuyên khi quân Janjaweed và đồng minh tràn xuống nơi ở của thường dân.
Vấn nạn bạo lực này đã tạo ra điều mà một nhóm các nhà nghiên cứu y khoa gọi là “thảm hoạ nhân khẩu học” ở Darfur. Tính đến giữa tháng 10 năm 2004, ước tính 1,8 triệu người – khoảng một phần ba dân số Darfur – đã bị tiêu diệt; với khoảng 1,6 triệu người Darfur phải di dời sang các khu vực khác của Sudan và 200.000 người khác đã vượt biên sang Chad. Khó mà xác định một cách chính xác số người chết; hầu hết các bài báo cho rằng có khoảng 50.000 người chết, nhưng con số thực tế có thể cao hơn rất nhiều. Tháng 10 năm 2004, một quan chức của Tổ chức Y tế Thế giới ước tính có 70.000 người di cư đã chết vì suy dinh dưỡng và các loại bệnh liên quan trực tiếp đến sự di cư của họ – con số này chưa bao gồm số người chết vì bạo lực. Cho đến nay, con số có thể đã tăng lên rất nhiều. Mặc dù có nguồn viện trợ rất lớn từ giữa năm 2004, vào tháng 10, Ủy ban Quốc tế của Hội Chữ thập đỏ cảnh báo rằng sẽ có một cuộc khủng hoảng lương thực “chưa từng có”. Vài tháng trước đó, một quan chức cấp cao của cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ đã nói với báo chí rằng số người chết có thể đạt đến con số 350.000 người vào cuối năm.
Chơi chữ
Hầu hết những sự thật ở trên là không thể chối cãi, báo cáo từ các nhân viên làm công tác cứu trợ và các phóng viên có một sự nhất quán đáng kể (mặc dù sự tàn bạo của quân nổi dậy vẫn chưa thật sự được chú ý). Đúng như dự đoán, phía Khartoum chối bỏ có liên quan trực tiếp đến các cuộc tấn công nhằm vào dân thường, cả Liên đoàn Ả-rập và Liên minh Châu Phi đều giảm nhẹ các vi phạm nhân quyền thô bạo (mà thay vào đó là tập trung vào cuộc nội chiến). Dẫu vậy, không có nhiều tranh cãi về những gì đang thật sự xảy ra ở Darfur. Lúc này, các cuộc tranh luận công khai ở Mỹ và Châu Âu lại ít bàn đến bản thân tình trạng bạo lực mà lại tập trung hơn vào việc nên gọi nó là gì, cụ thể là khái niệm “diệt chủng” có nên được áp dụng hay không.
Các cuộc tranh luận về nạn diệt chủng nổi lên từ tháng 3 năm 2004, sau khi Nicholas Kristof – một nhà bình luận của tờ Thời báo New York đăng tải nhiều bài báo đưa ra cáo buộc (diệt chủng) này. Những miêu tả hình ảnh của ông về các sự kiện này đã sớm thúc đẩy những lời kêu gọi hành động tương tự từ sự hợp tác của các bên như các cử tri người Mỹ gốc Do Thái, người Mỹ gốc Phi, các cử tri tự do và các cử tri tôn giáo bảo thủ. Vào tháng 7 năm 2004, bảo tàng Holocaust (bảo tàng về nạn tàn sát người Do Thái – ND) ở thủ đô Washington đã đưa ra “trường hợp khẩn cấp về diệt chủng” lần đầu tiên. Trang web MoveOn.org đã kêu gọi Ngoại trưởng Powell sử dụng từ “diệt chủng” cho trường hợp Darfur, như Nhóm các nghị sĩ da màu (Congressional Black Caucus), các nhóm đấu tranh cho quyền dân sự của người Mỹ gốc Phi, và một vài các tổ chức nhân quyền quốc tế đã làm (nhưng không có tổ chức Ân xá Quốc tế và tổ chức Giám sát Nhân Quyền). Các tay viết xã luận ở một số tờ báo lớn (của Mỹ – ND), trong đó có The Philadelphia Inquirer và The Boston Globe, cũng thực hiện những lời kêu gọi tương tự. Vốn từ lâu đã quan ngại về vấn đề đàn áp người da đen theo Kitô giáo ở miền Nam Sudan, những nhà truyền giáo ở Mỹ cũng kêu gọi một sự thừa nhận chính thức về nạn diệt chủng cũng như kêu gọi hành động từ Hoa Kỳ – mặc dù nạn nhân ở Darfur là những tín đồ Hồi giáo.
Những người đề nghị dùng từ “diệt chủng” nhấn mạnh hai luận điểm sau. Đầu tiên, họ cho rằng những sự kiện diễn ra ở Sudan đáp ứng tiêu chuẩn cơ bản của nạn diệt chủng: hành động bạo lực nhằm vào một nhóm dân tộc với mục đích hủy diệt, được tiến hành có hệ thống và có chủ ý, được chính phủ hỗ trợ. Thứ hai, họ nói rằng, theo Công ước chống Diệt chủng, sử dụng khái niệm này có thể thúc đẩy các hành động can thiệp của cộng đồng quốc tế nhằm ngăn chặn bạo lực. Salih Booker và Ann-Louis Colgan từ nhóm tư vấn mang tên Hành động Châu Phi (Africa Action) đã viết trên tờ The Nation: “Chúng ta nên rút ra bài học từ Rwanda, nếu muốn chấm dứt nạn diệt chủng, đầu tiên Washington phải nói ra từ đó”.
Colgan và Booker còn đưa ra một luận điểm đáng chú ý. Trong suốt thời gian diễn ra nạn diệt chủng ở Rwanda, đúng một thập niên trước khi sự kiện Darfur bắt đầu, các phát ngôn viên bộ Ngoại giao Mỹ được chỉ đạo là không được sử dụng “từ đó”, như trong một bản ghi nhớ nội bộ của chính phủ, việc công khai thừa nhận từ “diệt chủng” sẽ khiến chính phủ Mỹ phải cam kết tiến hành một số hành động vào thời điểm đó (năm sau khi chính phủ Somali sụp đổ) trong khi Nhà Trắng của Tổng thống Bill Clinton còn chưa sẵn sàng. Kết quả là nước Mỹ và các nước còn lại của thế giới đã đứng ngoài một chiến dịch hủy diệt đã cướp đi sinh mạng của ít nhất nửa triệu thường dân chỉ trong ba tháng. Sau đó, rất nhiều các học giả cho rằng, bước quan trọng đầu tiên để thu hút được các phản ứng tích cực hơn trong những lần kế tiếp là phải thẳng thắn gọi diệt chủng bằng từ “diệt chủng”.
Ý kiến cho rằng các quốc gia phải làm một điều gì đó để đối phó với nạn diệt chủng đến từ hai quy định trong Công ước chống Diệt chủng. Đầu tiên, công ước nói rằng các bên liên quan được yêu cầu phải “có hành động để ngăn chặn và trừng phạt” nạn diệt chủng. Thứ hai, điều VIII trong Công ước quy định các bên ký kết có thể kêu gọi Liên Hợp Quốc “hành động để ngăn chặn và chấm dứt” diệt chủng. Trước cuộc khủng hoảng Darfur, và chiếu theo những tranh luận về diệt chủng đã diễn ra ở Rwanda, cách giải quyết khôn ngoan là các bên ký kết Công ước (bao gồm cả nước Mỹ, tham gia năm 1988) có trách nhiệm phải tiến hành các hành động ngăn chặn diệt chủng nếu họ nhận thấy có nguy cơ diệt chủng xảy ra. Tuy nhiên, Công ước vẫn chưa được kiểm nghiệm và quả thật các điều luật cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể về “hành động ngăn chặn” và “chấm dứt” diệt chủng và ai phải thực hiện những biện pháp này.
Trong tháng 7, Hạ Viện Mỹ đã tham gia cuộc tranh luận sôi nổi này bằng cách thống nhất thông qua một nghị quyết đặt tên cho tình trạng bạo lực ở Sudan là “diệt chủng”. Nghị quyết trích dẫn Công ước, kêu gọi chính quyền Bush cũng hành động tương tự nhằm “nghiêm túc xem xét về hành động can thiệp đa phương hoặc thậm chí đơn phương để ngăn chặn nạn diệt chủng”. Tuy nhiên chính quyền Bush lại hiểu nghĩa vụ quốc tế của mình theo một cách khác. Đối mặt với những lời kêu gọi ngày càng tăng về việc gọi vấn đề Darfur là diệt chủng, ngoại trưởng Powell nhấn mạnh rằng, ngay cả với một sức ép như vậy, nếu có, cũng sẽ không thay đổi các chính sách của Mỹ đối với Sudan. Ông Powell nói, Washington đã gây áp lực với Khartoum để ngăn chặn bạo lực và đã cung cấp viện trợ nhân đạo; việc áp dụng từ “diệt chủng” cũng sẽ không giúp các bên nhận thêm được gì từ nước Mỹ. Tuy nhiên, ông cũng đã chỉ đạo một nghiên cứu chuyên sâu về việc có nên gọi vấn đề ở Darfur là “diệt chủng” hay không.
Trong khi đó, các nhà lãnh đạo khác trên thế giới và những người đưa ra ý kiến vẫn tiếp tục thể hiện sự dè dặt về viêc gọi sự kiện Darfur là “diệt chủng”. Các quan chức Châu Âu, Canada và Anh Quốc đều tránh sử dụng ra từ này, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan cũng vậy, ông bóng gió với giới truyền thông về việc chỉ đánh giá vấn đề ở Sudan là “vi phạm trên diện rộng về nhân quyền”. Tổ chức Giám sát Nhân quyền và tác giả đoạt giải thưởng Pulitzer – Samantha Power thích sử dụng một thuật ngữ bớt nặng nề hơn là “thanh lọc sắc tộc”. Họ lập luận rằng, diễn biến ở Darfur bao gồm việc cưỡng bức di dời một nhóm dân tộc, không phải là sự thủ tiêu cố ý, và khó mà chứng minh đó là hành động diệt chủng khi khủng hoảng còn đang diễn ra.
Cuộc tranh luận có một diễn biến bất ngờ vào tháng 9, khi ông Powell, trong phiên điều trần trước ban Đối ngoại của Thượng viện, thừa nhận rằng “diệt chủng” đang diễn ra ở Sudan. Powell đưa ra ý kiến dựa trên một nghiên cứu do chính phủ tài trợ, khảo sát trên 1.136 người dân Darfur đang tị nạn ở Chad. Lời khai của họ chứng minh rằng tình trạng bạo lực chống lại dân thường đã lan rộng, hướng đến nhóm dân tộc cụ thể, đồng thời chỉ rõ rằng có sự tham gia của chính phủ trong các cuộc tấn công. Hai tuần sau bài phát biểu của ông Powell, tổng thống Bush lặp lại trách nhiệm chống diệt chủng trong bài phát biểu trước Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Lịch sử không tái diễn
Download toàn bộ văn bản tại đây: Darfur va tranh luan ve diet chung.pdf